Trường Fulbright Việt Nam và vấn đề ký ức chiến tranh - Việt Mỹ News -->

Breaking

Home Top Ad

Post Top Ad

Thứ Ba, 7 tháng 6, 2016

Trường Fulbright Việt Nam và vấn đề ký ức chiến tranh


Sinh năm 1943, ông Bob Kerrey là một chính khách khá lớn của Mỹ. Ông từng là Thống đốc tiểu bang Nebraska (1983-1987), Thượng nghị sĩ (1989-2001) và là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1992. Lúc còn trẻ, đi lính, ông được điều sang Việt Nam. Vào đầu năm 1969, đơn vị của ông gây ra một vụ thảm sát đầy tai tiếng tại làng Thạnh Phong, Bến Tre.

Mấy ngày vừa qua, ở trong nước, trên báo chí chính thống cũng như trên các diễn đàn mạng, người ta bàn tán sôi nổi về việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam mới được chính thức cấp giấy phép thành lập tại Sài Gòn.

Trường đại học Fulbright Việt Nam là trường đại học tự trị, phi lợi nhuận và theo mô bình giáo dục của Mỹ đầu tiên được thành lập tại Việt Nam.

Trong buổi nói chuyện tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia vào ngày 24 tháng 5 vừa qua, Tổng thống Barack Obama đã xem sự xuất hiện của trường ấy như một dấu son trong tiến trình hoà giải và hợp tác giữa Việt Nam và Mỹ. Nhiều trí thức Việt Nam chào đón sự ra đời của trường học ấy như một bước ngoặt trong nỗ lực hiện đại hoá ngành giáo dục đại học tại Việt Nam. Người ta hy vọng, với nó, một tầng lớp trí thức mới sẽ được đào tạo một cách bài bản để có thể giúp việc xây dựng đất nước.

Tuy nhiên, mừng thì mừng, nhiều người vẫn áy náy, thậm chí, giận dữ về việc ông Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Quản trị.

Sinh năm 1943, ông Bob Kerrey là một chính khách khá lớn của Mỹ. Ông từng là Thống đốc tiểu bang Nebraska (1983-1987), Thượng nghị sĩ (1989-2001) và là ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1992. Lúc còn trẻ, đi lính, ông được điều sang Việt Nam. Vào đầu năm 1969, đơn vị của ông gây ra một vụ thảm sát đầy tai tiếng tại làng Thạnh Phong, Bến Tre, ở đó, có 24 người, bao gồm 14 phụ nữ, trẻ em và người già, bị giết chết. Theo lời ông Kerrey, mặc dù ông không trực tiếp giết một ai, nhưng cuộc thảm sát do đơn vị của ông gây ra, cũng để lại trong lòng ông một vết thương và một mặc cảm tội lỗi không nguôi day dứt. Ông luôn luôn tìm mọi cách để chuộc lại lỗi lầm ấy. Trong nhiều vai trò khác nhau trong bộ máy chính trị của Mỹ, ông luôn luôn tìm cách thúc đẩy tiến trình hoà giải giữa hai dân tộc, luôn luôn tìm cách giúp đỡ Việt Nam, đặc biệt về phương diện giáo dục, trong đó có việc thành lập trường đại học quốc tế Fulbright Việt Nam.

Sự hối cải và nhiệt tình của Bob Kerrey vẫn không đủ làm cho một số người Việt Nam hài lòng. Họ vẫn nhớ đến bàn tay vấy máu của ông. Họ vẫn cho việc ông làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị đại học Fulbright Việt Nam là một tín hiệu không tốt: Nó gợi nhớ đến chiến tranh và những tội ác của chiến tranh cũng như nó chạm vào vết thương chưa lành hẳn của nhiều người.

Một số người khác cho cách nhìn ấy, tuy chính xác, nhưng nặng về cảm tính. Họ cho trong thời điểm hiện nay, điều Việt Nam cần làm là quên đi những vết thương của chiến tranh, cùng nhìn về tương lai để cùng nhau cộng tác xây dựng đất nước cũng như thúc đẩy tiến trình hội nhập của Việt Nam vào sân chơi lớn của thế giới.

Tôi đồng ý với quan niệm sau, của những người muốn quên thù hận. Nhưng tôi cũng đồng cảm với những người vẫn còn loay hoay với quá khứ. Tuy nhiên, trong bài này, tôi không muốn tham gia vào cuộc tranh luận ấy. Tôi muốn nhân cơ hội này bàn mốt chút về ý nghĩa của ký ức, đặc biệt về ký ức chiến tranh.

Để nhận diện đặc điểm nổi bật nhất của loài người, trước, thời Phục Hưng và Khai Sáng, người ta chú ý đến lý trí (kiểu “tôi tư duy vậy tôi hiện hữu” của Descartes hay “con người là cây sậy biết tư duy” của Pascal); đầu thế kỷ 20, với Phân tâm học, người ta chú ý đến tiềm thức và vô thức; từ vài thập niên trở lại đây, người ta chú ý đến vai trò của ký ức với câu nói nổi tiếng: “Chúng ta là những gì chúng ta nhớ”.

Chính ký ức tạo nên ý niệm về bản sắc của cá nhân cũng như của tập thể: Những gì chúng ta nhớ mang lại ý nghĩa cho những gì chúng ta làm, chúng ta thấy, chúng ta nghe, từ đó, góp phần trả lời câu hỏi ta là ai. Ký ức cũng nối liền từng người lại với nhau, tạo thành một cộng đồng, hay rộng hơn, một quốc gia: Đó là một tập thể những người chia sẻ với nhau một số những ký ức chung về nguồn cội cũng như về lịch sử, kể cả lịch sử đương đại.

Liên quan đến chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến đã kết thúc hơn 41 năm, ký ức vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều người, thuộc nhiều thế hệ và thuộc nhiều chỗ đứng khác nhau. Những người lưu vong, hiện sống ở hải ngoại, xa lắc Việt Nam, vẫn không nguôi trăn trở với những ký ức về chiến tranh, đặc biệt về trận Mậu Thân cũng như tháng 4, 1975 và những tháng ngày sau đó, với các trại cải tạo và những cuộc vượt biển đầy nguy hiểm. Những người ở miền Bắc vẫn không quên những chuyến vượt Trường Sơn và những trận mưa bom dữ dội của Mỹ ngay tại Hà Nội. Mọi người vẫn nhớ và những cái nhớ ấy vẫn tiếp tục chi phối cách suy nghĩ cũng như cách hành xử của họ.

Với những người ngoại quốc từng tham gia vào chiến tranh Việt Nam, ký ức ấy vẫn còn nóng hổi.

Tại trường Đại học Victoria, trong ngành Việt học, ngoài các lớp về ngôn ngữ, văn chương và văn hoá Việt Nam, tôi còn có một lớp về chiến tranh Việt Nam, tập trung chủ yếu vào khía cạnh văn hoá và ký ức chiến tranh (Many Vietnams: War Culture and Memory). Thường, mỗi năm, tôi mời một cựu chiến binh của Úc đến trình bày kỷ niệm và kinh nghiệm của họ. Nhớ nhất là cuộc nói chuyện của nhà văn Barry Heard. Ông vừa nói vừa khóc. Sinh viên của tôi vừa nghe vừa khóc. Cuối buổi học, mắt ai nấy đều đỏ hoe.

Barry Heard kể ông vào lính lúc mới vừa học xong trung học. Sau mấy tháng huấn luyện quân sự, ông được đưa đến Việt Nam. Sau mấy ngày nghỉ ngơi tại Vũng Tàu, đơn vị của ông được máy bay thả xuống một khu rừng rậm với một chỉ thị: Bắn bất cứ người nào họ gặp. Không bao lâu sau, họ gặp người thật. Họ được lệnh khai hoả. Khi tiếng súng ngưng, họ chạy đến xem. Thấy đó là một đoàn bộ đội, có cả phụ nữ. Lần đầu tiên nhìn người chết, nhất là những người đó chết vì những viên đạn do mình bắn ra, cả đơn vị, gồm những thanh niên vừa mới lớn, oà lên khóc nức nở. Có người còn ói mửa liên tục. Nhưng rồi, họ cũng tiếp tục đi hành quân và tiếp tục bắn giết.

Khi trở lại Úc, Heard cứ bị ám ảnh mãi bởi những hình ảnh những xác chết trong rừng rậm ấy. Ông bị khủng hoảng tâm thần đến độ nhiều lần phải vào nhà thương điên. Sau, các bác sĩ khuyên ông hãy viết tất cả những gì ông từng trải nghiệm trong chiến tranh Việt Nam lên trang giấy. Nghe lời, ông viết cả mấy cuốn hồi ký. Tất cả đều bán chạy và từ đó, ông trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất về đề tài chiến tranh Việt Nam tại Úc.

Cuối buổi học, tôi hỏi ông bây giờ đã thấy thanh thản hẳn chưa. Ông đáp: Chưa. Ông vẫn bị ám ảnh về những xác chết trong rừng rậm. Thỉnh thoảng ông vẫn bị những cơn trầm cảm. Ông vẫn phải uống thuốc an thần. Ông lấy một phần tiền từ nhuận bút các cuốn sách ông viết để thành lập một quỹ học bổng giúp các học sinh và sinh viên Việt Nam nhưng ông vẫn không dám về Việt Nam. Tôi hỏi tại sao. Ông đáp: Vì sợ. Ông sợ sẽ không chịu đựng nổi khi nhìn lại khung cảnh Việt Nam. Vừa nói ông vừa ứa nước mắt.

Tôi cũng có một người bạn vốn là hoạ sĩ tại Úc. Anh cũng từng tham chiến tại Việt Nam. Anh kể một lần đụng trận; anh nhắm mắt xả súng về phía trước. Khi trận chiến chấm dứt, anh thấy trước mắt mình xác một thanh niên còn trẻ măng. Trên cổ người thanh niên ấy có một sợi dây chuyền với hình Quan Thế Âm. Anh vừa khóc vừa gỡ sợi dây chuyền ấy. Bây giờ, gần nửa thế kỷ sau, anh vẫn còn đeo sợi dây chuyền ấy trên cổ. Một lần, kể lại câu chuyện ấy với chúng tôi, anh vẫn khóc. Những ký ức về cuộc chiến tranh xa xôi về cả không gian lẫn thời gian ấy vẫn còn sống mãi và vẫn còn khiến anh đau đớn.

Tôi nghĩ Bob Kerrey cũng là một người như thế. Cũng không thoát được những ký ức về chiến tranh Việt Nam. Và cũng muốn làm một điều gì đó cho Việt Nam.

Nguyễn Hưng Quốc
Blog VOA

1 nhận xét:

  1. Người có óc (ks dấu khí) ở Xứ Tự Do

    Trước tiên, tôi được biết đơn vị SEAL (Ngưòi Nhái ) của Đại Úy Bob Kerrey đả đến núp trong các nhà của thường dân vào đêm 25 tháng 2 năm 1969 để chờ đợi và bắt sống các lính và cán bộ Việt Cộng về thăm gia đình họ. Khi bị các người dân phản ứng gây tiếng la to có thể làm lộ diện họ nên họ phải giết nhửng thân nhân của VC để sau đó rút chạy nhanh ra khỏi khu làng này vì VC về rất nhiều.
    Một thời gian sau đó, Đai Úp Kerrey bị phục kích và 1 trại lựu đạn của VC đả làm ông mất 1 cánh chân. Trong chiến tranh du kích, khi đồng đôi bị chết vì VC núp trong nhà dân bắn sẽ hay đạp chông, mìn của VC ở gần một khu làng của VC, nên lính Mỹ trả thù VC qua gia đình thân nhân của họ như ở Mỹ Lai. Đó là Gieo Gió thì Gặt Bảo !
    VC ở Miền Nam và bộ đội ở Miền Bắc vào củng đả pháo kích vào làng dân vô tội, vào nhà thương và trường học thì sỉ quan chỉ huy được lên đến cấp tướng gọi là Chiến Thắng Mỹ Ngụy! Ở Tây Nguyên, cả 1 bảng dân thiểu số ỏ gần trại lính biệt kích Mỹ đả bị VC vào bắn và dùng súng phóng hỏa đốt nhà có người già, phụ nử, và trẻ con trú ẩn. Tội ác của VC ở Huế và nhiều thành phố ở Miền Nam trong Tết Mậu Thân 1968, ở Quảng Trị vào Mùa Hè đỏ lửa 1972, ở An Lộc và Bình Long, và ở Miền Nam từ 1973 đến tháng 4 năm 1975, khi hàng chục ngàn thường dân vô tội, gồm người già, đàn bà, và trẽ con bị đạn pháo banh thây trên đường chạy di tản để tránh giặc cộng. Tội ác dã man này sao người Việt Nam không nhớ đến mà chỉ nhớ đến 21 người hy sinh vì cuộc chiến ở Thạnh Phong ?
    Đọc câu chuyện 1 sỉ quan bộ đội CS Miền Bắc, từng là chỉ huy của trại tù Ba Sao ỡ Hà Giang, khi về già sám hối như Phạm Văn Đồng hay Nguyển Tấn Dũng, đả đến 1 ngôi chùa gặp sư ông tru trì đưa danh sách 662 sỉ quan VNCH đả bị bọn cai tù hành hạ, tra tấn, đánh đập, cùm chân, bỏ đói đến chết! Người sỉ quan này quá độc ác và có tội nên khi về già sắp đi chầu Diêm Vưong mới thấy ăn năn sám hối !
    Đại Úy Bob Kerrey không có tội và không phải hối hận vì trong Chiến Tranh, ông là sỉ quan chỉ huy nhóm lính SEAL nên phải có trách nhiệm làm bất cứ gì trong hoàn cảnh bế tắc để bảo vệ tính mạng của họ, cho gia đình và thân nhân của họ ở Mỹ ! 21 người dân ở Thanh Phong chết vì đó là số mạng của họ và số mạng đó do thân nhân, nhửng lính VC và cán bộ VC đả chọn cho gia đình họ khi đi theo bọn giặc công, bỏ gia đình tổ tiên để tôn thờ bọn công sản tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, và vô tôn giáo ! Đả bỏ gia đình ra đi sao còn về nhà thường xuyên để lấy lương thực, tiền bạc mang thảm họa đến cho ông. bà, cha, mẹ, và vợ con ?
    Cuối cùng, những cựu chiến binh ngoại quốc đả phục vụ ở Miền Nam VN thì có 2 loại: Một là Lính chiến đấu vào sinh ra tử ở mặt trận ác liệt nhất thì trở nên trầm lặng, không muốn nhắc đến quá khứ. Hai là nhửng người lính không hề ra mặt trận nhưng đóng kịch bị bệnh thần kinh, ngày đêm bị ác mộng về nhửng xác chết ở trận địa hay thôn làng ở Miền Nam! Đọc câu chuyện trên, tôi nghỉ nên hỏi rỏ nhửng người đó ở đơn vị nào, đánh nhau ở trận nào, ở đâu, ai là sỉ quan chỉ huy để xem lại có thật không hay chỉ là nói phịa, đặt chuyện lên để làm anh hùng rơm, và mang bệnh thần kinh, đầu óc còn bị ám ảnh vì chết chóc trong cuộc chiến nhưng sự thật chỉ là đóng kịch giả dối !!!

    Trả lờiXóa

Post Bottom Ad