|
Bill Hayton là nhà báo làm việc cho BBC World News và là cộng sự viên nghiên cứu của Chương trình Châu Á thuộc cơ quan Chatham House. Ông cũng là tác giả của The South China Sea: The Struggle for Power in Asia, (Biển Đông: Cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á). Tác phẩm này được hai tạp chí The Economist và Foreign Affairs liệt kê thuộc vào loại tác phẩm trong năm 2014. Gần đây, Benjamin Herscovitch thuộc Young China Watchers có nói chuyện với Hayton về tranh chấp Biển Đông, các biến động mới xảy ra và những gì mong đợi trong thời gian còn lại của năm 2016.
***
Ông bắt đầu viết về Biển Đông: Cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu Á trong năm 2011. Điều gì đã thôi thúc ông đi sâu vào sự phức tạp của việc tranh chấp tại Biển Đông ?
Tôi đã viết một cuốn sách về Việt Nam và đang tìm một chủ đề khác. Trong năm 2011, Trung Quốc cắt các giây cáp của một số tàu khảo sát địa chấn, và đột nhiên cuộc tranh chấp Biển Đông bắt đầu thành vấn đề thời sự. Tôi nhận ra rằng cần có một cuốn sách để giải thích về các tranh chấp cho độc giả trung bình. Tôi nghĩ rằng nó sẽ không phải quá dài vì đã có nhiều người viết về tranh chấp Biển Đông. Càng đọc các tài liệu hiện có, tôi càng nhận ra rằng không đáng tin cậy. Các tài liệu tham khảo tương tự đã được sử dụng, nhưng chưa ai thực sự kiểm chứng. Thường thì khi ông tìm xem lại các nguyên tác, các tài liệu này bị phân tán; tài liệu chỉ khẳng định hoặc là các bài báo có trích dẫn các nhận định. Vì vậy, phải mất một thời gian khá dài để truy ra các bằng chứng và đúc kết thành sách.
Cuốn sách của ông kể lại một thời điểm đáng kể về sự hợp tác trong năm 2005 giữa Trung Quốc và Philippines, khi hai đối thủ vê lãnh thổ tham gia vào một Toán Công tác Phối Hợp về Nghiên cứu Địa chấn (Joint Marine Seismic Undertaking, JMSU) nhằm đánh giá về trữ lượng dầu để khai thác chung. Có gì sai trái trong vấn đề này? Tại sao Trung Quốc và Philippines – cũng như các nước khác đang có yêu sách – không cùng nhau phát triển về việc đánh cá, khí thiên nhiên và trữ lượng khí đốt tự nhiên cho Biển Đông một cách có ý nghĩa hơn?
JMSU là kết quả của một sự liên kết đặc biệt của các lợi ích trong nước ở Philippines. Cuối cùng, JMSU đã tạo ra tranh cãi trong rộng khắp ở Philippines nên không đạt được vì các thương thảo dị biệt. Có hàng loạt các cáo buộc hối lộ và tham nhũng, và do đó, JMSU đã trở thành một loại thiệt hại liên đới. Thỏa thuận này đã hết hạn và không có ai ở Philippines muốn thúc đẩy để tái tục. Thật là khó có thể làm lại một lần nữa.
Phát triển phối hợp là khả thi nếu ông đồng ý rằng phía đối tác có một yêu sách hợp pháp hoặc có thể có quyền khiếu nại chính đáng. Vấn đề ở Biển Đông là người Trung Quốc chỉ muốn phát triển chung trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác. Ví dụ nếu như họ chuẩn bị để nói rằng toàn bộ con đường chín đoạn là một khu vực phát triển chung cho đến bờ biển của Hải Nam, rồi thì Philippines và Việt Nam có thể tham gia. Nhưng khi Trung Quốc đàm phán về việc phát triển chung, họ chỉ đề cập đến các khu vực ngoài khơi bờ biển Việt Nam hoặc Philippines
Trung Quốc và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Tuyên bố về Cách Ứng xử ở Biển Đông (DOC) vào năm 2002, nhưng việc thiết lập một Bộ Quy tắc Ứng xử chính thức có vẻ như còn xa vời hơn bao giờ hết. Những trở ngại lớn nhất để hợp thức hóa một Bộ Quy tắc Ứng xử là gì?
Đàm phán về một Bộ Quy tắc Ứng xử tốt hơn là không đàm phán về vấn đề này, nhưng tôi nghĩ rằng một thỏa thuận như vậy là hoàn toàn đại bại. Vấn đề là một Bộ Quy tắc Ứng xử được giải đoán là kiểm soát hành vi của các quốc gia có yêu sách khác nhau. Nhưng liệu là Trung Quốc sẵn lòng có hành vi thuận theo như thỏa thuận với các quốc gia ASEAN có yêu sách không? Không có gì chắc. Liệu có bất kỳ điểm nào trong các quốc gia ASEAN có yêu sách ký kết mà không kiểm soát hành vi của Trung Quốc? Chuyện không thực.
Tất cả các quốc gia trên Biển Đông đang khiếu nại, ở một mức độ nào đó, xây dựng các hòn đảo nhân tạo hoặc đánh bắt cá ở vùng biển còn tranh chấp. Có rất nhiều các hoạt động này dừng lại trong số các quốc gia ASEAN có yêu sách phù hợp với Bộ Quy tắc Ứng xử (DOC) trong năm 2002. Kể từ đó, trong một vài trường hợp, người Việt đã mở rộng đảo của họ, nhưng họ đã không làm bất cứ điều gì gọi là bi đát như người Trung Quốc. Bộ Quy tắc Ứng xử (DOC) bảo đảm các nuớc thuộc ASEAN có yêu sách tuyên bố rằng họ sẽ không nỗ lực và đánh đuổi nhau ra khỏi các đảo mà họ chiếm đóng. Nếu Trung Quốc tham gia ở điểm này, thì tranh chấp Biển Đông được giải quyết phần nào. Tất nhiên, vấn đề là Trung Quốc nhận ra sự việc với niềm tin rằng họ là chủ sở hữu hợp pháp của tất cả các hòn đảo trên biển và do đó họ sẽ không tham gia ký kết vào một thỏa ước như vậy.
Manila, Hà Nội, các thủ đô khác trong khu vực và Washington đã phản đối mạnh mẽ về các quy mô và tốc độ cuả việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông, trong đó bao gồm hơn 1.100 ha đất đang tranh chấp và đường băng có khả năng làm chổ cho các phi cơ oanh tạc viễn liên của Trung Quốc. Các hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc tác động đến tình hình an ninh khu vực như thế nào, và theo họ thì các mục tiêu chiến lược dài hạn là gì?
Theo quan điểm của Trung Quốc, đây không phải là hành động tấn công. Người Trung Quốc tin rằng họ là chủ sở hữu hợp pháp của tất cả mọi thứ trong đường chín đoạn. Do đó, các hoạt động này được coi là hợp pháp và thực sự về bảo vệ các quyền lợi cuả Trung Quốc. Tranh giành đất đai cuả Trung Quốc được coi là một biện pháp phòng thủ để giữ cho lực lượng hải quân nước ngoài ra xa khỏi bờ biển Trung Quốc. Đó cũng được xem như là một phương tiện phóng chiếu quyền lực xuống tới eo biển Malacca và bảo vệ các tuyến đường thương mại cuả Trung Quốc. Cuối cùng, đó cũng được xem như là một cách để bảo vệ các nguồn tài nguyên dầu và cá cuả Trung Quốc ở Biển Đông.
Theo quan điểm của Malaysia, Philippines và Việt Nam, đây là những động thái tấn công cao độ. Dù vậy, Trung Quốc dường như không có khả năng để thấy quan điểm của các nước khác. Gần đây, có một đoàn đại biểu thuộc một trung tâm nghiên cứu ngoại giao của Đảng Cộng Sản, đó là Trung tâm Nghiên cứu các Vấn đề Đương đại của Thế giới cuả Trung Quốc ở Luân Đôn. Khi tôi gợi ý cho họ rằng có người khác có thể có một quan điểm khác về vùng Biển Đông, họ đã không quan tâm. Quan điểm cuả họ là: “Đây là vị thế của chúng tôi. Quan điểm cuả chúng tôi là đúng, và cuả tất cả mọi người khác là sai.” Một thái độ như vậy rõ ràng là sẽ gây ra nhiều vấn đề.
Gần đây, Hoa Kỳ và Úc biểu hiện quyền tự do trong không gian và trên biển thuộc các hoạt động hàng hải (FONOPs) gần các vùng do Trung Quốc kiểm soát ở Biển Đông, trong khi Nhật Bản đã nêu lên sự tham gia cuả mình. Với những hoạt động hàng hải thuộc FONOPs làm chậm lại hoặc sẽ ngừng việc mở rộng các gia tăng kiểm soát của Trung Quốc trên vùng biển tranh chấp ?
Điều quan trọng cần lưu ý rằng Trung Quốc đã không chiếm đóng lãnh thổ mới với việc cải tạo đất. Trung Quốc đang xây dựng trên các rạn san hô mà họ chiếm từ năm 1994. Chúng ta đã nhìn thấy sự kết thúc cuả giai đoạn xây dựng đảo – bây giờ họ đang hoàn thành đường băng, bến cảng, và các cơ sở khác. Thực ra, không có gì khác mà họ có thể xây dựng, ngoài một số khu vực trống và nhỏ gần nơi mà họ đang xây dựng. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có một đạo luật quốc nội, mà hầu hết các lời giải thích đều cho rằng luật này không phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), vì luật này nói rằng các tàu chiến nước ngoài phải xin phép trước khi đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc. Hoa Kỳ bác bỏ quan điểm này cuả Trung Quốc và sẽ tiếp tục tiến hành theo cách cuả FONOPs nhằm thách thức Trung Quốc .
Tuy nhiên, những nỗ lực của Hoa Kỳ để thách thức các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông dường như làm cho âu lo nhiều hơn. Xung quanh quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã tuyên bố những gì được gọi là đường cơ sở – về cơ bản nó đã được vẽ một đường xung quanh quần đảo này và tuyên bố tất cả mọi thứ bên trong đường này là thuộc về lãnh hải của Trung Quốc. Đó là hoàn toàn đi ngược lại UNCLOS. Cách duy nhất Hoa Kỳ có thể thách thức yêu sách này là cho tàu bè đi vào vào ngay giữa khu vực này và thực hiện các hoạt động chống lại với việc quá cảnh vô tội trong vùng lãnh hải của một quốc gia khác. Ví dụ như tàu chiến của Hoa Kỳ phải mờ cho hệ thống vũ khí của họ hoạt động hoặc cho khởi động các máy bay trực thăng. Điều này làm tăng các thủ đoạn nguy hiểm đáng kể, đặt ra một nguy cơ thực sự vì cảm nhận là đang bị đe dọa. Trên thực tế, Hoa Kỳ chỉ đơn giản thử nói là: “Đây là những gì Luật Biển quy định rằng chúng tôi có thể làm, và chúng tôi sẽ dựa vào luật pháp.” Nhưng Bắc Kinh chỉ có thể thấy mối đe dọa biểu kiến của một tàu chiến Hoa Kỳ khi mở ra các hệ thống vũ khí để ứng chi ến trong vùng lân cận của một căn cứ quân sự Trung Quốc.
Ông tiên đoán gì về việc mở rộng các tranh chấp Biển Đông trong năm 2016? Liệu Trung Quốc có khả năng thay đổi chính sách cuả họ về Biển Đông không?
Chính phủ Trung Quốc không muốn trở thành một chủ đề chính của cuộc tranh luận trong chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, vì vậy có lợi thế là Bắc Kinh sẽ cố gắng và giữ cho mọi thứ yên tĩnh ở vùng biển Đông trong năm 2016. Tuy nhiên, tình hình có thể nóng lên từ tháng Sáu, với kết quả dự kiến của vụ án tại Tòa án Trọng tài Thường trực giữa Philippines và Trung Quốc. Cơ hội tiếp theo cho sự leo thang có thể là ngay sau khi một vài tuần sau khi Tổng thống Hoa Kỳ mới nhậm chức. Đầu năm 2001, ngay sau khi George W. Bush nhậm chức, đã có sự cố EP-3 ngoài khơi đảo Hải Nam nơi máy bay Trung Quốc cố tình thách thức một máy bay do thám của Hoa Kỳ. Vào tháng 3 năm 2009, khá lâu sau khi Tổng thống Obama đã nhậm chức, đã có sự cố khác – lại là một thách thức cố ý đến các hoạt động của Hoa Kỳ trong vùng biển Đông. Vì vậy, có thể có một kịch bản xảy ra trong tháng Giêng năm 2017, sau khi vị tổng thống kế nhiệm nhậm chức. Trung Quốc có thể dàn dựng một sự cố khác ở Biển Đông với một con tàu hoặc máy bay của Hoa Kỳ.
Young China Watchers - Diplomat
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm
Việt Báo
The South China Sea Disputes: Past, Present, and Future An interview with Bill Hayton, author of The South China Sea: The Struggle for Power in Asia.
Bill Hayton is a journalist with BBC World News and an Associate Fellow of the Asia Program at Chatham House. He is also the author of The South China Sea: The Struggle for Power in Asia, named a book of the year by both The Economist and Foreign Affairs in 2014. Young China Watchers’ Benjamin Herscovitch spoke recently with Hayton about the South China Sea disputes, recent developments, and what to expect in the rest of 2016. Young China Watchers (YCW): You started writing The South China Sea: The Struggle for Power in Asia in 2011. What prompted you to delve into the messy complexities of the South China Sea dispute? Bill Hayton: I’d written a book on Vietnam and was looking for another topic. In 2011, China cut the cables of some seismic survey ships, and suddenly the South China Sea dispute started to get coverage. I realized that there was space for a book that explained the dispute to the average reader. I thought it wouldn’t take too long because so much had already been written about the South China Sea dispute. But the more I looked into the existing material, the more I realized it was unreliable. The same references were being used, but no one had actually checked them. Often when you go back to the original sources, they fall apart in your hands; they’re just assertions, or they’re newspaper articles citing assertions. So it took quite a long time to dig out the evidence and finish the book. Your book recounts a remarkable moment of cooperation in 2005 between China and the Philippines, when the two territorial rivals engaged in a Joint Marine Seismic Undertaking (JMSU) to assess oil reserves for shared exploitation. What went wrong? Why have China and the Philippines—as well as the other claimant states—not jointly developed the South China Sea’s significant fishery, natural gas, and hydrocarbon reserves? The JMSU was the result of a particular alignment of domestic interests in the Philippines. Eventually, the JMSU became massively controversial in the Philippines because of various business deals gone wrong. There were dozens of allegations of kickbacks and corruption, and so the JMSU became collateral damage. The agreement expired and no one in the Philippines was willing to push for its renewal. It’s very unlikely to be dug up again. Joint development is possible if you agree that the other side has a legitimate claim or might have a legitimate claim. The problem in the South China Sea is that the Chinese only ever want to do joint development in other nations’ exclusive economic zones. If they were prepared, for example, to say that the entire nine-dash line was a joint development zone right up to the coast of Hainan, then the Philippines and Vietnam might participate. But when China talks about joint development, it only mentions areas off the Vietnamese or Philippine coasts. China and the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) signed a Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea (DOC) in 2002, but seem as far away as ever from establishing a formal Code of Conduct. What are the biggest roadblocks to formalizing a Code of Conduct? Talking about a Code of Conduct is better than not talking about one, but I think such an agreement is dead in the water. The problem is that a Code of Conduct is supposed to control the behavior of the various claimant states. But is China willing to have its behavior regulated by an agreement with the ASEAN claimant states? Unlikely. Is there any point in the ASEAN claimant states signing a piece of paper that doesn’t control China’s behavior? Not really. All South China Sea claimant states have, to some extent or another, built artificial islands or fished in disputed waters. A lot of these activities stopped among ASEAN claimant states with the DOC in 2002. In a few cases, the Vietnamese have been enlarging their islands since then, but they haven’t done anything quite as dramatic as the Chinese. The DOC assured the ASEAN claimant states that they were not going to try and dislodge each other from the islands they occupied. If China were to sign up to that, that’s the South China Sea dispute solved to some extent. The problem, of course, is that China comes at this with the belief that it’s the rightful owner of every island in the sea and therefore won’t sign up to such an agreement. Manila, Hanoi, other regional capitals and Washington have strongly objected to the scale and pace of China’s construction of artificial islands in the South China Sea, which includes more than 1,100 hectares of reclaimed land and runways capable of handling long-distance bombers. How do China’s land reclamation activities impact the regional security situation, and what is the long-term strategic goal behind them? From the Chinese perspective, these are not offensive actions. The Chinese believe they are the rightful owners of everything in the nine-dash line. These activities are therefore seen as legitimate and really about defending China’s rights. Chinese land reclamation is seen as a defensive measure to keep foreign navies away from the Chinese coast. It’s also seen as a means of projecting power down to the Malacca Strait and protecting Chinese trade routes. Finally, it’s seen as a way of safeguarding China’s oil and fish resources in the South China Sea. From the Malaysian, Philippine and Vietnamese perspectives, these are highly aggressive moves. China seems to be unable to see other countries’ points of view though. There was a delegation from the Communist Party’s foreign affairs think tank, the China Center for Contemporary World Studies, in London recently. When I put to them the idea that other people might have a different point of view about the South China Sea, it didn’t compute. Their view is: “This is our position. It’s right, and everybody else is wrong.” Such an attitude is obviously going to cause problems. The U.S. and Australia recently conducted sea and air freedom of navigation operations (FONOPs) near Chinese-controlled features in the South China Sea, while Japan has mooted its involvement. Will these FONOPs slow or stop the incremental expansion of Chinese control over disputed waters? It’s important to note that China has not occupied new territory with its land reclamation. China is building on the same reefs that it occupied up to 1994. We’ve seen an end to the island-building phase of the construction—now they’re finishing the runways, harbors, and other structures. There’s really nothing else that they can build on, aside from some small unoccupied areas near the land on which they are currently constructing. China nevertheless has a domestic law that is, by most interpretations, incompatible with the United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS) because it says that foreign warships must seek permission before sailing through Chinese territorial waters. The U.S. rejects this Chinese position and will continue to conduct FONOPs to challenge it. The U.S. effort to challenge Chinese claims in South China Sea is, however, likely to become more vexed. Around the Paracel Islands, China has declared what are called straight baselines—it has basically drawn a line around this group of islands and declared everything inside this line as Chinese territorial waters. That is completely against UNCLOS. The only way the U.S. can challenge this claim is to sail right into the middle of this area and undertake activities inconsistent with innocent passage through another state’s territorial waters. U.S. warships must, for example, turn their weapons systems on or launch helicopters. This raises the level of brinkmanship considerably, posing a real risk of being perceived as threatening behavior. Actually, the U.S. is simply trying to say, “This is what the Law of the Sea says we can do, and we are going to stick to the letter of the law.” But Beijing may only see the apparent threat of a US warship turning on its weapons systems in the vicinity of a Chinese military base. How do you expect the South China Sea dispute to develop in 2016? Is China likely to modify its South China Sea policy? The Chinese government does not want to be a major topic of debate during the U.S. presidential election campaign, so the odds are that Beijing will try and keep things quiet in the South China Sea in 2016. The situation may heat up in June, however, with the expected results of the case at the Permanent Court of Arbitration between the Philippines and China. The next opportunity for escalation could be as soon as a few weeks after the new U.S. president is inaugurated. In early 2001, shortly after the inauguration of George W. Bush, there was the EP-3 incident off Hainan Island where Chinese aircraft deliberately challenged a U.S. spy plane. In March 2009, fairly soon after Obama was inaugurated, you had the Impeccable incident—again a deliberate challenge to U.S. activities in the South China Sea. So one scenario might be that in January 2017, after the next presidential inauguration, China could engineer another incident in the South China Sea with a U.S. ship or plane |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét