Ngăn Chặn Trung Quốc Ra Sao, Andrew F. Krepinevich Jr - Việt Mỹ News -->

Breaking

Home Top Ad

Post Top Ad

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015

Ngăn Chặn Trung Quốc Ra Sao, Andrew F. Krepinevich Jr


Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hò hét khi họ thực tập ở nhiệt độ khoảng 22 độ âm ở tỉnh Hắc Long Giang, ngày 16 tháng 12 2014. - Soldiers shout as they practice in temperatures of about minus 22 degrees in Heilongjiang province, December 16, 2014. Courtesy Reuters

     
Tình thế của Phòng ngự Quần đảo

Đối với quân đội Hoa Kỳ, ít ra là chuyện "xoay trục" sang Châu Á đã xảy ra rồi. Đến năm 2020, lực lượng hải quân và không quân hoạch định bố trí 60 phần trăm lực lượng của họ ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Ngũ Giác Đài, trong khi đó đang đầu tư một phần lớn những máy bay ném bom tầm xa và tàu ngầm hạt nhân được thiết kế để hoạt động trong vùng có nhiều đe dọa.

Những sự chuyển đổi này rõ ràng có dự tính để kiềm chế một Trung Quốc ngày càng táo tợn hơn. Hơn nữa có lý do của nó: những tuyên bố chủ quyền bành trướng của Bắc Kinh đe dọa gần như tất cả các nước dọc theo vùng thường biết đến là "chuỗi đảo thứ nhất" khoanh vùng nhiều phần của Nhật Bản, Philippines, và Đài Loan---tất cả được Washington phải có bổn phận bảo vệ. Thế nhưng để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc có hiệu quả, Ngũ Giác Đài buộc phải làm hơn nữa. Những năng lực đang lên của Trung Quốc có chủ đích làm thui chột khả năng của Washington lo liệu yểm trợ quân sự cho đồng minh và đối tác. Dẫu cho việc ngăn chặn bằng viễn cảnh của trừng phạt, thông qua hình thức không tập và phong tỏa hải quân, có một vai trò đáng kể trong việc làm nản chí chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc, mục tiêu của Washington và đồng minh và của đối tác nên là đạt được mục tiêu ngăn chặn bằng việc phủ nhận---để thuyết phục cho được Bắc Kinh rằng là họ đơn giản không thể đạt được các mục tiêu bằng vũ lực.

Tận dụng khả năng tiềm tàng của các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ, đồng minh, và đối tác, Washington có thể đạt được mục tiêu kể trên tốt nhất bằng việc thiết lập một chuỗi những phòng thủ liên hoàn dọc theo chuỗi đảo thứ nhất---một "Phòng ngự Quần đảo"---và bằng cách đó khước từ Bắc Kinh khả năng để đạt được những mục tiêu theo chủ nghĩa xét lại thông qua xâm lược hoặc cưỡng chiếm.

Những Hiểm họa của Chủ nghĩa Xét lại

Trung Quốc tuyên bố rằng sự trỗi dậy của họ có chủ đích hòa bình thế nhưng hành xử của họ lại cho thấy một câu chuyện khác hẳn: rằng một cường quốc mới nổi đang tìm cách thống lĩnh phía tây Thái Bình Dương. Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền không chỉ đối với Đài Loan mà còn cả Quần đảo Senkaku của Nhật Bản (được biết là Điếu Ngư Quần đảo ở Trung Quốc) và hầu hết 4.3 triệu km vuông chiếm phần lớn Biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông--ND). Đây là nơi mà sáu quốc gia khác có tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và hàng hải. Và Trung Quốc chẳng ngượng ngùng gì về chuyện theo đuổi những mục tiêu đó. Ví dụ vào năm 2010, bộ trưởng bộ ngoại giao lúc bấy giờ là Dương Khiết Trì gạt bỏ những quan ngại về sự bành trướng của Trung Quốc trong chớp mắt "Trung Quốc là một nước lớn và những nước khác là nước nhỏ, và đó là một thực tế."

Nói đến chuyện Bắc Kinh bắt nạt các nước khác gần đây ở Biển Đông. Vào tháng 3 năm 2014, tàu hải giám của Trung Quốc ngăn cản tàu của Philippines không cho tiếp cận các tiền đồn của họ ở Quần đảo Trường Sa. Hai tháng sau đó, Trung Quốc di chuyển một giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đụng độ với tàu cá của Việt Nam. Những hành động này lặp lại những vụ trước đó ở Biển Hoa Đông. Vào tháng 10 năm 2010, để trả đũa cho việc bắt giữ thuyền trưởng tàu đã đâm vào hai tàu duyên của Nhật Bản, Trung Quốc tạm thời không xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản---đất hiếm là nguyên liệu cần thiết để sản xuất điện thoại di động và máy tính. Và vào tháng 11 năm 2013, Trung Quốc đơn phương tuyên bố "vùng nhận dạng phòng không" lên không phận thuộc quần đảo Senkaku đang trong tranh chấp và những vùng khác của Biển Hoa Đông buộc các máy bay phải tuân theo quy định không lưu của họ. Họ cảnh báo rằng sẽ có hành động quân sự đối với máy bay không tuân thủ quy định của họ.

Một số đã cho rằng một khi sức mạnh quân sự của họ lớn mạnh hơn và các nhà lãnh đạo của họ cảm thấy an tâm hơn, Trung Quốc sẽ tiết chế những hành động như vậy. Thế nhưng điều ngược lại xem ra có vẻ đúng hơn. Quả thực là những hành động khiêu khích của Bắc Kinh đã trùng khớp với sự khuyếch trương dữ dội sức mạnh quân sự của họ. Trung Quốc đang đầu tư vào một số năng lực mới mà chúng đặt ra một mối đe dọa trực tiếp cho ổn định của khu vực. Lấy ví dụ Quân đội Giải phóng Nhân dân (QĐGPND) Trung Quốc đang tăng cường những khả năng của cái gọi là chống xâm nhập, phủ nhận vùng kiểm soát nhằm để ngăn chặn quân đội các nước khác khỏi chiếm giữ hoặc di hành qua những vùng lãnh thổ trải rộng với mục đích hiển nhiên là làm cho vùng Tây Thái Bình Dương thành một vùng không lối thoát cho quân đội Hoa Kỳ. Điều này bao gồm chuyện phát triển những biện pháp để nhắm đến những hệ thống bộ tư lệnh của Ngũ giác Đài mà chúng phụ thuộc mạnh mẽ vào vệ tinh và Internet để phối hợp hành quân và hậu cần. QĐGPND đã có tiến bộ đáng kể về mặt này trong những năm gần đây như thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh, dùng laser để làm mù vệ tinh của Hoa Kỳ, và phát động những vụ tấn công mạng tinh vi vào hệ thống mạng của quốc phòng Hoa Kỳ.

Trung Quốc cũng đang tăng cường khả năng của họ để nhắm đến những quân cụ và giới hạn khả năng của Hải Quân Hoa Kỳ hoạt động trong hải phận quốc tế. QĐGPND đã có tên lửa đạn đạo quy ước và tên lửa hành trình có thể đánh các cơ sở quan trọng của Hoa Kỳ trong khu vực như Căn cứ Không quân Kadena ở Okinawa, Nhật Bản. Và họ đang phát triển máy bay tàng hình có khả năng tấn công nhiều mục tiêu dọc theo chuỗi đảo thứ nhất. Để phát hiện và nhắm bắn các chiến hạm ở tầm xa hơn, QĐGPND Trung Quốc đã triển khai các trạm radar mạnh mẽ và vệ tinh do thám cùng với máy bay không người lái có thể thi hành các nhiệm vụ trinh sát tầm xa. Và để theo dõi các hàng không mẫu hạm cũng như các chiến hạm bảo vệ chúng, hải quân Trung Quốc đang tậu tàu ngầm võ trang với ngư lôi tối tân và tên lửa hành trình được thiết kế để đánh tàu tầm xa.

Những hành động của Bắc Kinh không thể thanh minh như thể là một phản ứng đáp trả việc tăng cường lực lượng quân sự của Hoa Kỳ. Trong thập niên vừa qua, Washington đã tập trung sức lực và tài nguyên chủ yếu vào việc yểm trợ quân đội ở Afghanistan và Iraq. Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ, chiếm ở mức trên bốn phần trăm GDP của quốc gia trong những năm gần đây, được dự đoán là sẽ sụt giảm xuống dưới hơn ba phần trăm vào cuối thập niên này. Nói đơn giản là Ngũ giác Đài đang cắt giảm các năng lực quân sự trong khi QĐGPND [Trung Quốc] thì đang tăng cường chúng.

Dẫu cho nếu quá khứ là đoạn mở đầu, Trung Quốc sẽ không tìm cách giải quyết những mục tiêu bành trướng của họ bằng gây hấn công khai. Chiếu theo tập quán chiến lược của họ, họ muốn chậm mà chắc dịch chuyển cán cân lực lượng quân sự khu vực theo chiều có lợi cho họ. Điều này nhằm để khu vực chẳng có lựa chọn nào khác ngoài chuyện phục tùng cưỡng bức của Trung Quốc. Phần nhiều là các quốc gia láng giềng của Trung Quốc tin rằng cam kết ngoại giao và ràng buộc kinh tế sẽ chẳng làm suy chuyển thực tế đơn giản này. Nhiều quốc gia trong số đó, kể cả Nhật Bản, Philippines, và Việt Nam, đang tăng cường chú trọng quân đội của họ vào nhiệm vụ chống lại những tham vọng quân sự của Trung Quốc. Họ biết rõ mười mươi là những hành động riêng lẻ sẽ không đủ để ngăn chặn Bắc Kinh khỏi việc xúc tiến tham vọng của họ. Chỉ có yểm trợ trang thiết bị của Hoa Kỳ họ mới có thể thiết lập một mặt trận chung nhằm ngăn chặn Trung Quốc khỏi những hành động xâm lược hoặc cưỡng chiếm.

Ngăn chặn bằng việc Khước từ

Nếu Washington muốn làm thay đổi tính toán của Bắc Kinh, họ phải phủ nhận Trung Quốc khả năng kiểm soát không phận và hải phận quanh chuỗi đảo thứ nhất. Do là QĐGPND [Trung Quốc] sẽ phải làm chủ cả hai chiến trường kể trên để cô lập quần đảo. Hoa Kỳ cũng phải tích hợp hệ thống chiến trường của đồng minh và tăng cường khả năng của họ---cả hai sẽ hỗ trợ cho việc cân bằng những nỗ lực của QĐGPND nhằm phá vỡ sự ổn định của cân bằng quân sự khu vực. Nói chung thì những mục tiêu đó có thể đạt được bằng các lực lượng trên bộ mà chúng sẽ không thay thế những lực lượng không quân và hải quân mà hỗ trợ họ thêm.

Khi nói đến phòng không, các quốc gia dọc theo chuỗi đảo thứ nhất có thể củng cố khả năng của họ để phủ nhận kiểm soát của Trung Quốc đối với không phận bằng việc triển khai các đơn vị lục quân trang bị với tên lửa đánh chặn tầm ngắn cơ động và tương đối đơn giản (ví dụ như tên lửa Evolved Sea Sparrow--Én Biển đời mới--yểm trợ bởi các hệ thống radar GIRAFFE để phát hiện mục tiêu). Trong khi đó Lục quân Hoa Kỳ, cùng với các đồng minh như Nhật Bản, có thể sử dụng các hệ thống tầm xa tinh vi hơn có khả năng đánh chặn các tên lửa hành trình của Trung Quốc và hủy diệt các máy bay tối tân của họ. Cho dù không thuộc chuỗi đảo thứ nhất, Việt Nam đã đang nâng cấp khả năng chống xâm nhập không phận và có thể hỗ trợ vào nỗ lực phòng thủ chung lớn hơn.

Rồi thì còn có nhiệm vụ khước từ QĐGPND quyền kiểm soát hải phận mà họ sẽ cần để tiến hành những cuộc hành quân tấn công các hòn đảo. Các thành viên thâm niên của Quốc hội đã khuyến khích Lục quân Hoa Kỳ xem xét phục hồi lại lực lượng pháo binh cho phòng vệ duyên hải, một nhiệm vụ mà họ đã từ bỏ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ý tưởng thì thật đơn giản và có tính thuyết phục. Thay vì phải mạo hiểm phái tàu chiến vào trong tầm của lực lượng phòng thủ của QĐGPND hoặc tái phối trí tàu ngầm từ những nhiệm vụ quan trọng hơn, Hoa Kỳ và các đồng minh có thể dựa vào các lực lượng lục quân có căn cứ dọc theo chuỗi đảo thứ nhất và vũ trang với các bệ phóng lưu động và tên lửa chống hạm để đảm nhiệm các sứ mệnh như vậy. Quân đội Nhật Bản đã làm y như vậy; họ triển khai những đơn vị tên lửa hành trình chống hạm ở ven bờ ở một số đảo của quần đảo Ryukyu trong những cuộc tập trận. Việt Nam đã triển khai những hệ thống tương tự. Các quốc gia tiền phương khác có thể theo đó mà làm một cách độc lập hoặc là với sự hỗ trợ tài chính, huấn luyện, và kỹ thuật của Hoa Kỳ.

Một sứ mệnh khác mà lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh có thể đóng góp là chiến tranh thủy lôi. Truyền thống mà nói thì tàu hải quân đặt mìn và phá mìn để giới hạn hoặc cho phép quá cảnh qua các vùng biển hẹp và eo biển. Cho dù việc phá mìn sẽ vẫn là nhiệm vụ của hải quân, các lực lượng lục quân có thể đóng góp một vai trò lớn hơn vào việc thả mìn, đặc biệt là nếu họ đóng quân gần các eo biển nối liền biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông--ND) đến đại dương. Vũ trang với khả năng đặt mìn từ những căn cứ từ đất liền bằng cách sử dụng tên lửa tầm ngắn, trực thăng, hoặc sà lan. Các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh có thể làm cho một vùng biển rộng nằm ngoài tầm với cho Hải quân Trung Quốc. Các bãi mìn ở những nút cổ chai then chốt dọc theo chuỗi đảo thứ nhất sẽ gây rắc rối cho thế tấn công trên biển của Trung Quốc và cản trở khả năng của Trung Quốc quấy rối các lực lượng hải quân của đồng minh. Các khẩu đội tên lửa chống tàu ven bờ biển, trong khi ấy có thể làm cho cuộc hành quân phá mìn của chiến hạm QĐGPND rủi ro.

Về lâu về dài thì những lực lượng lục quân cũng có thể yểm trợ cho các cuộc hành quân chống lại lực lượng tàu ngầm đang lớn mạnh của Trung Quốc. Một tàu ngầm cốt dựa vào sự bí mật để phòng ngự; một khi bị phát hiện, nó phải lẩn tránh đụng độ hoặc là chuẩn bị nguy cơ cao bị hủy diệt. Bằng cách đặt các thiết bị thu nhận tần số thấp và thu âm ở vùng biển quanh chuỗi quần đảo thứ nhất, Hoa Kỳ và đồng minh có thể bổ sung khả năng của họ nhằm phát hiện sự hiện diện của tàu ngầm Trung Quốc. Các đơn vị pháp binh duyên hải tiếp theo có thể dùng các ngư lôi phóng từ hỏa tiễn để buộc các tàu ngầm hủy bỏ nhiệm vụ và rút lui.

Nếu Trung Quốc xâm chiếm một đồng minh hoặc đối tác của Hoa Kỳ, ngay cả một lực lượng nhỏ lục quân cũng có thể yểm trợ các lực lượng địa phương kháng cự mãnh liệt. Những cuộc xung đột gần đây ở Đông Nam Á và Trung Đông đã cho thấy rằng những kết quả gì một lực lượng lục quân không chính quy cỡ trung bình có thể gặt hái được nhờ sự yểm trợ của vũ khí hiện đại và các cố vấn có khả năng. Nhờ sự trợ giúp của các cố vấn Hoa Kỳ và không lực, một quân đội miền Nam Việt Nam bị áp đảo về quân số co thể chống trả lại một cuộc tấn công toàn diện bởi các lực lượng Bắc Việt vào năm 1972. Gần ba thập niên sau đó, vào năm 2001, một lực lượng nhỏ Đặc Nhiệm Biệt phái của Hoa Kỳ, yểm trợ bởi máy bay cường kích, đã giúp Lực lượng Liên minh Phương Bắc Afghanistan đánh bại Taliban. Và vào năm 2006, các chiến binh Hezbollah ở Lebanon với sự giúp đỡ của các cố vấn Iran, đã đánh cho Lực lượng Phòng Vệ Do Thái đến chỗ bế tắc trong một tháng. Một nỗ lực tương tự ở Thái Bình Dương của các lực lượng lục quân Hoa Kỳ có thể khiến cho chuyện xâm chiếm và chiếm đóng lãnh thổ là chuyện phải trả giá cực kỳ đắt cho Trung Quốc, đặc biệt là nếu các lực lượng địa phương cũng được huấn luyện kỹ càng và trang bị tốt. Có súng cối, tên lửa, và hỏa tiễn phòng không vác vai tầm ngắn và dẫn đường chính xác sẽ tối đa hóa tầm sát thương của các đơn vị du kích nhỏ.

Bằng việc gánh vác trách nhiệm lớn hơn cho chuyện khước từ QĐGPND kiểm soát không phận và hải phận mà họ cần để triển khai các cuộc hành quân tấn công, các lực lượng lục quân có thể giải vây cho các lực lượng không quân và hải quân của Hoa Kỳ và đồng minh để thi hành các nhiệm vụ mà chỉ có họ có thể hoàn thành như viễn thám và không tập. Giả như chuyện ngăn chặn không thành, những lực lượng không quân và hải quân sẽ là then chốt để phòng thủ chuồi quần đảo thứ nhất và cân bằng những lợi thế của QĐGPND. Lấy ví dụ, QĐGPND có thể tập trung lực lượng ở bất kỳ điểm nào dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất nhanh chóng hơn Hoa Kỳ và đồng minh vì họ có quân đội phân tán mỏng hơn. Và họ không cần phải lo về những lợi ích quốc gia trái ngược nhau. (Trong trường hợp bị Trung Quốc tấn công cấp tập vào một hòn đảo, những quốc gia dọc theo chuỗi quần đảo sẽ có khuynh hướng cầm chân những lực lượng của họ để phòng thủ quê nhà của họ.) Bằng cách giảm thiểu chuyện cần đến các lực lượng không quân và hải quân cho những nhiệm vụ như chống xâm nhập không và hải phận, các lực lượng lục quân sẽ cho phép những lực lượng không quân và hải quân ở vị trí dự bị, sẵn sàng nhanh chóng tiến vào bảo vệ những nút bị đe dọa trong chuỗi đảo.

Để thành công, một chính sách ngăn chặn cũng cần có một đe dọa trả đũa khả dĩ một khi quân đội có mặt, và trong trường hợp này, các lực lượng lục quân có thể yểm trợ cho chuyện này. Vào thời điểm này, những vũ khí của Hoa Kỳ mà có thể giáng trả chính xác một cuộc tấn công đang được đóng quân tại các căn cứ tiền phương và hàng không mẫu hạm ngày càng bị dễ bị tấn công. Ngũ giác Đài có kế hoạch cho những vấn đề này bằng cách đóng những tàu ngầm mới và sản xuất những máy bay tàng hình tầm xa nhưng giá thành cho những vũ khí như vậy là đắt đỏ đặc biệt là tính đến trọng tải vừa phải của chúng. Các lực lượng lục quân, nếu so ra, có thể đem đến một giải pháp ít tốn kém hơn để hỗ trợ hỏa lực. Không như các lực lượng không quân và hải quân, các lực lượng lục quân không cần phải quay trở lại những căn cứ xa xăm để nạp đạn lại. Họ có thể dự trữ đạn nhiều hơn so với cả máy bay ném bom hay chiến hạm lớn nhất. Và họ có thể chứa chúng ở những boong-ke kiên cố để được che chở chắc chắn hơn khỏi bị tấn công.

Hơn nữa, trong trường hợp có xung đột, QĐGPND sẽ có lợi thế đáng kể: họ có một lực lượng khổng lồ các tên lửa tầm ngắn và tầm trung có căn cứ trên bộ. Hoa Kỳ, do là đã ký kết Hiệp ước về Lực lượng Vũ khí Hạt nhân tầm Trung, không thể triển khai những hệ thống này. Dẫu vậy bằng cách trang bị các lực lượng lục quân với những tên lửa tương đối rẻ tiền mà vẫn tuân theo những giới hạn về cự ly và bằng cách bố trí chúng dọc theo chuỗi đảo thứ nhất để cắt giảm chi phí cho việc phóng hỏa tiễn tầm xa, Washington và các đồng minh có thể thuận buồm xuôi gió trong việc điều chỉnh chuyện bất cân bằng quyền lực với chi phí thấp. Và nếu lục quân không thể hành quân nhanh chóng để đối phó với một sự cố chọc thủng phòng tuyến của phòng ngự quần đảo, những lực lượng gần đó có thể nhanh chóng đối phó bằng cách tập trung hỏa lực hỏa tiễn vào vùng bị đe dọa.

Có lẽ điểm yếu nhất của chuỗi quần đảo thứ nhất là hệ thống mạng chiến trường của Hoa Kỳ---những hệ thống then chốt mà có thể đảm trách mọi thứ từ điều quân và kiểm soát binh sĩ và hậu cần cho đến dẫn đường vũ khí. Hệ thống này hiện nay dựa chủ yếu vào vệ tinh và các máy bay không người lái điều mà QĐGPND có thể triệt hạ được. Các tốt nhất để giảm thiểu mối nguy đó là thiết lập một mạng lưới viễn thông dựa vào cáp quang được chông dưới đất và lòng biển dọc theo chuỗi đảo cho phép những lực lượng trong tình trạng nguy cấp có thể thu phát dữ liệu một cách an toàn từ những trung tâm hành quân từ đất liền. Các lực lượng phòng không và chống xâm nhập đường biển đóng ở đảo cũng như những bãi mìn chống hạm có thể bảo vệ các đường cáp quang chạy giữa các hòn đảo.

Biến Mục đích thành Thành tựu

Cũng như với bất cứ khái niệm hành quân nào, Phòng ngự Quần đảo đối mặt với nhiều chướng ngại. Hai điểm lớn nhất là tài chính và địa chính trị: chi phí trong tương lai và ý chí của các quốc gia hợp tác dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất. Thế nhưng cho dù cái giá phải trả cho tình hình mới, cộng đồng quốc phòng ở Hoa Kỳ bắt đầu nhận ra rằng những dự tính cắt giảm ngân sách cho Ngũ giác Đài không tương xứng với tình hình an ninh ngày càng nguy hiểm. Nhóm Quốc phòng (The National Defense Panel--ND), một nhóm không đảng phái bao gồm những chuyên gia quốc phòng Hoa Kỳ, gần đây cho ra đề nghị rằng chính phủ Obama và Quốc Hội khôi phục chi tiêu quốc phòng trở lại mức được dự tính trong ngân sách của Ngũ giác Đài vào năm 2012. Chấp nhận đề nghị đó sẽ gia tăng đáng kể các nguồn lực của Ngũ giác Đài trong thập niên tới.

Ngũ giác Đài cũng có thể đưa ra lý lẽ rằng đầu tư vào Phòng ngự Quần đảo có thể gặt hái những kết quả trong tương lai xa hơn khỏi vùng tây Thái Bình Dương. Lấy ví dụ khái niệm Chiến trường Không Địa, được phát triển vào thập niên 1970 đã giúp ngăn chặn Khối Warsaw khỏi tấn công NATO, đã thành công không chỉ ở trung Âu mà Hoa Kỳ và đồng minh còn dựa vào nó ở một dạng khác trong cuộc chiến vùng Vịnh Ba Tư 1990-1991. Tương tự, Ngũ giác Đài có thể sử dụng những khả năng liên quan đến Phòng ngự Quần đảo để phòng thủ những vùng trọng yếu khác bao gồm đồng minh và đối tác gần vùng Vịnh Ba Tư và Biển Baltic.

Nếu Bộ Quốc Phòng không thể có gia tăng ngân sách, họ vẫn có thể có những thay đổi để đáp ứng vị thế mới cho tình hình an ninh hiện nay. Lấy cho ngay một ví dụ, Ngũ giác Đài vẫn có thể biệt phái một phần lớn lực lượng lục quân dành để bảo vệ Nam Triều Tiên khỏi một cuộc tấn công từ Bắc Triều Tiên. Dẫu cho một cuộc xâm lược quy mô là không chắc chắn; hiểm họa lớn nhất là Bình Nhưỡng có thể mở đầu một cuộc tấn công với tên lửa mang đầu đạn hạt nhân hoặc hóa học. Dù gì đi nữa thì Nam Triều Tiên có dân số đông gấp hai và thu nhập đầu người gấp 15 lần đối phương. Seoul có thể và nên chung vai một phần đáng kể của gánh nặng quốc phòng của họ để chống lại một cuộc xâm lược truyền thống trên bộ.

Ngay cả với những nguồn lực thích hợp, đối phó với một trùng dương sóng cuộn bao gồm những đồng minh khu vực và đối tác sẽ không khỏi đặt ra những thử thách. Những lực lượng lục quân Hoa Kỳ sẽ phải đóng nhiều vai trò khác nhau tùy theo quốc gia. Nhật Bản, với những năng lực kinh khủng, có thể lo liệu phòng thủ trên bộ mà không cần nhiều yểm trợ từ Hoa Kỳ. Trái lại, các lực lượng lục quân Hoa Kỳ sẽ có thể cần đóng một vai trò lớn hơn ở Philippines. Ở cả hai quốc gia, một sự hiện diện lớn hơn của lục quân Hoa Kỳ sẽ đem lại một cam đoan mà lực lượng không quân và hải quân, mà họ có thể rút lui nhanh chóng, không thể đem lại. Đài Loan, trong khi đó, do không có quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, sẽ phải hành động với ít hay không có sự yểm trợ.

Nhiều quốc gia, đặc biệt là Nhật Bản và Việt Nam, đã gợi ý rằng họ nghiêm túc về chuyện triển khai các công sự phòng ngự chắc chắn cho Phòng ngự Quần đảo. Các quốc gia khác ngoài chuỗi quần đảo thứ nhất bao gồm Úc và Singapore tỏ ra có ý lo liệu căn cứ và yểm trợ hậu cần. Thế nhưng cũng như NATO mất hơn một thập niên để thiết lập một ngăn chặn truyền thống thứ dữ đối với Khối Warsaw, Hoa Kỳ và đồng minh không thể thiết lập Phòng ngự Quần đảo trong nay mai.

Theo đuổi chiến lược ngay bây giờ sẽ có lợi thế của việc cho phép Washington và các quốc gia thân thiện trang trải chi phí của việc triển khai những lực lượng như vậy về lâu dài. Trong khi đó, với chuyện cạnh tranh quân sự đang diễn ra, Hoa Kỳ và đồng minh dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất phải có một nỗ lực vững chắc và bền bỉ để duy trì ổn định và thịnh vượng của khu vực. Dĩ nhiên, Phòng ngự Quần đảo sẽ chẳng đem lại một phương thuốc trị bá bệnh chống lại tất cả những hình thức gây hấn khác nhau của Trung Quốc hơn là ngăn chặn truyền thống của NATO đã giải quyết những vấn đề đặt ra bởi những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và sự tăng cường lực lượng hạt nhân của Moscow. Thế nhưng thiết lập một tư thế như vậy sẽ cho thấy một bước đi chính yếu---nếu không nói là hơi trễ---đầu tiên trong việc đối trọng những tham vọng xét lại của Trung Quốc.
     
The Case for Archipelagic Defense

In the U.S. military, at least, the “pivot” to Asia has begun. By 2020, the navy and the air force plan to base 60 percent of their forces in the Asia-Pacific region. The Pentagon, meanwhile, is investing a growing share of its shrinking resources in new long-range bombers and nuclear-powered submarines designed to operate in high-threat environments.

These changes are clearly meant to check an increasingly assertive China. And with good reason: Beijing’s expanding territorial claims threaten virtually every country along what is commonly known as “the first island chain,” encompassing parts of Japan, the Philippines, and Taiwan—all of which Washington is obligated to protect. But to reliably deter Chinese aggression, the Pentagon will have to go even further. Emerging Chinese capabilities are intended to blunt Washington’s ability to provide military support to its allies and partners. Although deterrence through the prospect of punishment, in the form of air strikes and naval blockades, has a role to play in discouraging Chinese adventurism, Washington’s goal, and that of its allies and partners, should be to achieve deterrence through denial—to convince Beijing that it simply cannot achieve its objectives with force.

Leveraging the latent potential of U.S., allied, and partner ground forces, Washington can best achieve this objective by establishing a series of linked defenses along the first island chain—an “Archipelagic Defense”—and, in so doing, deny Beijing the ability to achieve its revisionist aims through aggression or coercion.

THE RISKS OF REVISIONISM

China claims that its rise is intended to be peaceful, but its actions tell a different story: that of a revisionist power seeking to dominate the western Pacific. Beijing has claimed sovereignty over not only Taiwan but also Japan’s Senkaku Islands (known in China as the Diaoyu Islands) and most of the 1.7 million square miles that make up the East China and South China Seas, where six other countries maintain various territorial and maritime claims. And it has been unapologetic about pursuing those goals. In 2010, for example, China’s then foreign minister, Yang Jiechi, dismissed concerns over Beijing’s expansionism in a single breath, saying, “China is a big country, and other countries are small countries, and that is just a fact.”

Consider Beijing’s recent bullying in the South China Sea. In March 2014, Chinese coast guard boats blocked the Philippines from accessing its outposts on the Spratly Islands. Two months later, China moved an oil rig into Vietnam’s exclusive economic zone, clashing with Vietnamese fishing boats. The moves echoed earlier incidents in the East China Sea. In September 2010, as punishment for detaining a Chinese fishing boat captain who had rammed two Japanese coast guard vessels, China temporarily cut off its exports to Japan of rare-earth elements, which are essential for manufacturing cell phones and computers. And in November 2013, China unilaterally declared an “air defense identification zone,” subject to its own air traffic regulations, over the disputed Senkaku Islands and other areas of the East China Sea, warning that it would take military action against aircraft that refused to comply.

Some have suggested that as its military grows stronger and its leaders feel more secure, China will moderate such behavior. But the opposite seems far more likely. Indeed, Beijing’s provocations have coincided with the dramatic growth of its military muscle. China is now investing in a number of new capabilities that pose a direct challenge to regional stability. For example, China’s People’s Liberation Army is bolstering its so-called anti-access/area-denial capabilities, which aim to prevent other militaries from occupying or crossing vast stretches of territory, with the express goal of making the western Pacific a no-go zone for the U.S. military. That includes developing the means to target the Pentagon’s command-and-control systems, which rely heavily on satellites and the Internet to coordinate operations and logistics. The PLA has made substantial progress on this front in recent years, testing an antisatellite missile, using lasers to blind U.S. satellites, and waging sophisticated cyberattacks on U.S. defense networks.

China is also enhancing its capacity to target critical U.S. military assets and limit the U.S. Navy’s ability to maneuver in international waters. The PLA already has conventional ballistic and cruise missiles that can strike major U.S. facilities in the region, such as the Kadena Air Base, in Okinawa, Japan, and is developing stealth combat aircraft capable of striking many targets along the first island chain. To detect and target naval vessels at greater distances, the PLA has deployed powerful radars and reconnaissance satellites, along with unmanned aerial vehicles that can conduct long-range scouting missions. And to stalk U.S. aircraft carriers, as well as the surface warships that protect them, the Chinese navy is acquiring submarines armed with advanced torpedoes and high-speed cruise missiles designed to strike ships at long distances.

Beijing’s actions cannot be explained away as a response to a U.S. arms buildup. For the last decade, Washington has focused its energy and resources primarily on supporting its ground troops in Afghanistan and Iraq. The U.S. defense budget, which until recently stood at above four percent of the country’s GDP, is projected to decline to less than three percent by the end of the decade. Simply put, the Pentagon is shedding military capabilities while the PLA is amassing them.

Yet if the past is prologue, China will not seek to resolve its expansionist aims through overt aggression. Consistent with its strategic culture, it wants to slowly but inexorably shift the regional military balance in its favor, leaving the rest of the region with little choice but to submit to Chinese coercion. For the most part, China’s maritime neighbors are convinced that diplomatic and economic engagement will do little to alter this basic fact. Several of them, including Japan, the Philippines, and Vietnam, are increasingly focusing their militaries on the task of resisting Chinese ambitions. They know full well, however, that individual action will be insufficient to prevent Beijing from carrying its vision forward. Only with U.S. material support can they form a collective front that deters China from acts of aggression or coercion.

DETERRENCE THROUGH DENIAL

If Washington wants to change Beijing’s calculus, it must deny China the ability to control the air and the sea around the first island chain, since the PLA would have to dominate both arenas to isolate the archipelago. The United States must also integrate allied battle networks and strengthen allied capabilities—both of which will help offset the PLA’s efforts to destabilize the region’s military balance. By and large, those goals can be achieved with ground forces, which would not replace existing air and naval forces but complement them.

When it comes to air defenses, states along the first island chain could buttress their ability to deny China access to airspace by employing army units equipped with highly mobile and relatively simple short-range interceptor missiles (such as the Evolved Sea Sparrow, supported by GIRAFFE radar systems to detect targets). The U.S. Army, meanwhile, along with such allies as Japan, could operate more sophisticated, longer-range systems capable of intercepting Chinese cruise missiles and destroying advanced Chinese aircraft. Although not part of the first island chain, Vietnam is already enhancing its air-denial capabilities and could contribute to a larger defense effort.

Then there is the task of denying the PLA the sea control it would need to mount offensive operations against the islands. Senior members of Congress have encouraged the U.S. Army to consider resurrecting an artillery force for coastal defense, a mission it abandoned after World War II. The idea is simple and compelling. Rather than risk sending warships within range of PLA defenses or diverting submarines from higher-priority missions, the United States and its allies could rely on ground forces, based along the first island chain and armed with mobile launchers and antiship cruise missiles, to perform the same operations. Japan’s military has done exactly that, placing shore-based antiship cruise missile units on some of the Ryukyu Islands during military exercises. Vietnam has fielded similar systems. And other frontline states could follow suit, either independently or with U.S. funding, training, and technical assistance.

Another mission to which U.S. and allied ground forces could contribute is naval mine warfare. Traditionally, naval ships lay and clear mines to restrict or allow transit through narrow seas and straits. Although clearing mines will remain an inherently naval function, ground forces could play a larger role in laying them, particularly if stationed near the key straits that link the East China and South China Seas to the open oceans. Armed with the ability to emplace sea mines from land bases using short-range rockets, helicopters, or barges, U.S. and allied ground forces could make large stretches of sea off-limits to the Chinese navy. Minefields at key chokepoints along the first island chain would greatly complicate a Chinese naval offensive and hamper China’s ability to harass allied naval forces. Nearby coastal antiship missile batteries, meanwhile, could make mine-clearing operations risky for PLA ships.

Over the long run, ground forces could also support operations against the PLA’s growing submarine force. A submarine relies heavily on its stealth for defense; once noticed, it must evade contact or assume a high risk of destruction. By placing low-frequency and acoustic sensors in the water around the first island chain, U.S. and allied forces could augment their ability to detect the presence of PLA submarines. Coastal artillery units could then use rocket-launched torpedoes to induce oncoming submarines to abandon their missions and retreat.

If China invaded a U.S. ally or partner, even a small number of U.S. ground troops could help local forces mount a determined resistance. Modern conflicts in Southeast Asia and the Middle East have demonstrated what a modest irregular ground force can achieve with the help of modern weapons and capable advisers. Thanks to U.S. advisers and airpower, an overmatched South Vietnamese army was able to withstand a full-scale assault by North Vietnamese forces in 1972. Nearly three decades later, in 2001, a small contingent of U.S. Special Forces, backed by strike aircraft, helped Afghanistan’s Northern Alliance defeat the Taliban. And in 2006, Hezbollah fighters in Lebanon, with the assistance of Iranian advisers, fought the Israeli Defense Forces to a standstill for a month. A similar effort by U.S. ground forces in the Pacific could make seizing and occupying territory an extremely costly proposition for China, especially if local forces also had advanced training and equipment. Access to short-range, precision-guided mortars, rockets, and shoulder-fired antiaircraft missiles, for example, would maximize the lethality of small guerrilla resistance units.

By shouldering greater responsibility for denying the PLA the air and sea control it needs to mount offensive operations, ground forces could liberate U.S. and allied air and naval forces to perform the missions only they can accomplish, such as long-range surveillance and air strikes. Should deterrence fail, these air and naval assets would prove critical to defending the first island chain and offsetting PLA advantages. For example, the PLA can concentrate forces at any point along the first island chain far more rapidly than can the United States and its allies, whose militaries are more widely distributed. And it doesn’t have to reconcile conflicting national interests. (In the wake of a Chinese offensive against a single island, countries along the chain would likely want to keep their forces in place to defend their homelands.) By reducing the demands on U.S. air and naval forces for such missions as air and sea denial, ground forces would enable these air and naval forces to stand in reserve, ready to move quickly to defend a threatened link in the chain.

To be successful, a policy of deterrence also needs to have a credible threat of retaliation after the fact, and here, too, ground forces could help. At present, the U.S. weapons that can launch a precise retaliatory strike are located on increasingly vulnerable forward air bases and aircraft carriers. The Pentagon plans to address this problem in part by building new submarines and long-range stealth bombers, but the cost of such hardware is high, especially given their relatively modest payloads. Ground forces, by comparison, may offer a cheaper way to provide additional firepower. Unlike air and naval forces, ground forces do not need to return to distant bases in order to rearm. They can store far more munitions than even the largest bomber or warship, and they can place them in hardened bunkers that are better shielded from attack.

Moreover, in the event of a conflict, the PLA would benefit from a particularly asymmetric advantage: its large force of land-based intermediate- and medium-range ballistic missiles. The United States, as a signatory to the Intermediate-Range Nuclear Forces Treaty, cannot deploy these systems. Yet by equipping ground forces with comparatively inexpensive missiles that conform to the treaty’s range limitations, and by positioning them forward along the first island chain to reduce the cost associated with delivering missiles over extended ranges, Washington and its allies could go a long way toward fixing the imbalance at a relatively low cost. And if ground troops could not physically maneuver rapidly enough to respond to a breach in the island chain’s defenses, those nearby could quickly respond by concentrating their missile fire on the threatened area.

Perhaps the first island chain’s greatest vulnerability is the U.S. battle network—the critical systems that handle everything from directing and tracking troops and supplies to guiding weapons. This network currently relies heavily on satellites and nonstealth unmanned aerial vehicles, both of which the PLA could target. The best way to reduce that risk would be to establish a communications network of fiber-optic cables buried beneath the ground and the seabed along the chain, allowing disparate forces to safely receive and transmit data from hardened command centers on land. Island-based air defense and sea-denial forces, as well as antiship minefields, could protect the cable lines running between the islands.

THE ART OF THE POSSIBLE

As with any operational concept, Archipelagic Defense faces hurdles. Two of the most prominent are fiscal and geopolitical: the prospective cost and the willingness of states along the first island chain to cooperate. But despite the price tag of a new posture, the defense community in the United States is beginning to realize that current projected cuts in the Pentagon’s defense budget do not square with today’s increasingly dangerous security environment. The National Defense Panel, a bipartisan group of U.S. defense experts, recently recommended that the Obama administration and Congress restore defense spending to the levels projected in the Pentagon’s original budget for fiscal year 2012. Adopting that recommendation would substantially increase the Pentagon’s resources over the next decade.

The Pentagon can also make the argument that investing in Archipelagic Defense could yield future returns beyond the western Pacific. For example, the so-called AirLand Battle concept, which was developed in the 1970s and helped deter a Warsaw Pact attack on NATO, succeeded not only in central Europe; the United States and its allies also relied on it, in modified form, during the 1990–91 Persian Gulf War. Similarly, the Pentagon could employ many of the capabilities associated with Archipelagic Defense to defend other critical regions, including allies and partners near the Persian Gulf and the Baltic Sea.

If the Defense Department cannot secure budget increases, it can still make changes to better match its overall posture to the current security environment. To cite but one example, the Pentagon still earmarks a significant number of ground forces to defend South Korea from a North Korean attack. Yet a large-scale invasion is unlikely; the greater threat is that Pyongyang could launch a strike with missiles armed with nuclear or chemical warheads. In any event, South Korea has a population that is twice as large as its enemy’s and a per capita income that is more than 15 times as large. Seoul can and should shoulder a greater portion of the burden of its own defense against a traditional ground invasion.

Even with the right resources, dealing with a welter of regional allies and partners will undoubtedly prove challenging. U.S. ground forces would have to play different roles depending on the country. Japan, with formidable capabilities of its own, could bolster its ground defenses without much U.S. support. By contrast, U.S. ground forces would probably need to take on a larger role in the Philippines. In both countries, a greater U.S. ground presence would provide a level of assurance that air and maritime forces, which can be quickly withdrawn, cannot. Taiwan, meanwhile, given the absence of diplomatic relations with the United States, would have to act with little or no assistance.

Several countries, Japan and Vietnam in particular, have already suggested that they are serious about fielding the kind of robust defenses that would be required for Archipelagic Defense. Other states beyond the first island chain, including Australia and Singapore, appear inclined to provide basing and logistical support. But just as it took NATO well over a decade to establish a formidable conventional deterrent to the Warsaw Pact, the United States and its allies cannot establish Archipelagic Defense overnight.

Committing to the strategy now would have the advantage of allowing Washington and its friends to spread the expense of fielding such forces over time. In the meantime, given the region’s ongoing military competition, the United States and its allies along the first island chain must make a persistent, sustained effort to preserve regional stability and prosperity. Of course, Archipelagic Defense would provide no more of a panacea against all forms of Chinese aggression than NATO’s conventional deterrent solved the problems once posed by Moscow’s wars of national liberation and nuclear buildup. But establishing such a posture would represent an essential—and long-overdue—first step in counterbalancing China’s revisionist ambitions.

Andrew F. Krepinevich Jr
Foreign Affairs
Neofob chuyển ngữ

Nguồn: How to Deter China, Andrew F. Krepinevich Jr | Foreign Affairs

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad