Luật về đảng chính trị trong nền dân chủ và thể chế pháp quyền - Việt Mỹ News -->

Breaking

Home Top Ad

Post Top Ad

Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2015

Luật về đảng chính trị trong nền dân chủ và thể chế pháp quyền


Muốn quản trị tốt một quốc gia, hai trụ cột quan trọng đó chính là nền dân chủ và thể chế pháp quyền. Tuy nhiên, hai yếu tố này là hai mặt của một chỉnh thể, không thể có cái này mà không có cái kia.


Các nghị viên ở Hong Kong căng dù vàng, biểu tượng của phong trào biểu tình đòi quyền bầu cử tự do năm ngoái, và bỏ ra ngoài trong phiên họp đầu tháng 1. Động thái này nhằm phản đối chính quyền Hong Kong tái khẳng định việc bầu cử ở Hong Kong chỉ dựa trên những ứng cử viên do Trung Quốc đại lục chấp thuận, tạo ra một cuộc khủng hoảng dân chủ lớn nhất ở Hong Kong kể từ khi sáp nhập trở lại với đại lục và đe dọa thể chế pháp quyền ở đặc khu vốn là thuộc địa của Anh này. Ảnh: Bobby Yip/Reuters

Dân chủ chính là việc thừa nhận rộng rãi một cấu trúc nhà nước với đầy đủ tính chất của một nhà nước quản trị xã hội tốt, trong đó, đảm bảo sự tự do và công bằng trong hoạt động ứng cử và bầu cử. Chính điều này sẽ đem lại một lợi ích lớn lao thông qua việc sẽ mang lại những thay đổi quan trọng cho quốc gia với những ý tưởng chính trị mới.

Tương tự như vậy, một nhà nước dân chủ sẽ phải có một chính quyền chịu trách nhiệm trước công chúng và minh bạch trong quá trình ban hành các quyết sách, quyết định chính trị. Dân chủ sẽ giúp cung cấp một sự quản trị tốt đối với sự cạnh tranh giữa các nhóm tôn giáo, dân tộc và các lợi ích văn hóa một cách lâu dài và hòa bình. Sự quản trị tốt này thể hiện ở việc quá trình cạnh tranh này sẽ diễn ra với các rủi ro trong các lợi ích xung đột sẽ diễn ra ở mức tối thiểu. Bởi những xung đột lợi ích này nếu không được giải quyết khéo léo và ổn thỏa, sẽ dẫn tới sự cản trở cho quá trình phát triển đất nước.

Nhưng chỉ bản thân dân chủ không đủ giúp cho một nhà nước quản trị tốt. Một nhà nước quản trị tốt cần nhiều hơn chỉ là dân chủ với việc bầu cử, ứng cử tự do hay đơn thuần là sự phát triển trong các đảng chính trị. Một điều quan trọng vô cùng đó là các cam kết cho nguyên tắc pháp quyền. Nếu không có pháp quyền, sẽ không có đất sống cho dân chủ. Mối tương tác quan trọng giữa dân chủ và pháp quyền đã được thể hiện trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc: “chúng tôi sẽ hết sức nỗ lực cho việc thúc đẩy dân chủ và tăng cường sức mạnh của pháp quyền”.[1]

Mặc dù khái niệm pháp quyền (rule of law) được hiểu khác nhau, tuy nhiên, về cơ bản, khái niệm về pháp quyền thể hiện mối quan hệ giữa luật pháp và chính quyền. Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia phát triển trên thế giới, như Canada chẳng hạn, pháp quyền được thể hiện trên hai phương diện: “Thứ nhất, tất cả mọi cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật, cho dù cá nhân đó đang nắm giữ vị trị nào đó trong xã hội; Thứ hai, bản thân nhà nước cũng bị ràng buộc bởi pháp luật do chính mình ban hành và phải tuân thủ pháp luật đó. Không một cá nhân nào bị kết án nếu đó không phải là phán quyết của một tòa án hợp pháp. Nói một cách khác, tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật”[2].

Một thể chế pháp quyền luôn đòi hỏi sức mạnh của luật pháp thể hiện qua việc tôn trọng Hiến pháp và luật pháp trong xã hội. Theo đó, các đảng chính trị cũng phải tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ quy định của hiến pháp và luật pháp quốc gia nói chung.

Các đảng chính trị tìm kiếm quyền lực để cai trị, và tìm kiếm phương thức cai trị. Tuy nhiên, trong khi đang tìm kiếm quyền lực thì đảng chính trị lại bị cai trị bởi bộ máy nhà nước đang nắm giữ quyền lực chính trị. Bộ máy nhà nước này đặt ra những nguyên tắc, luật lệ để quản lý hoạt động của các đảng chính trị. Các luật lệ quy định về hoạt động của các đảng chính trị thường được gọi chung là luật về đảng chính trị (Party Law).

Luật về đảng chính trị là gì?

Luật về đảng chính trị đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống luật pháp của một quốc gia. Trong một thể chế pháp quyền, luật về đảng chính trị cung cấp một khung khổ pháp lý cho hoạt động của các đảng chính trị, nhưng nó cũng là phương tiện để hạn chế sự lạm quyền của các đảng chính trị đang cầm quyền.

Theo Richard S. Katz của đại học John Hopkin[3] thì các chế định của luật về đảng được thiết lập bởi 3 mục tiêu cơ bản:

Thứ nhất, là để xác định rõ ai hoặc cơ quan nào sẽ có quyền được công nhận là một đảng chính trị? Điều này sẽ bao hàm nhiều khía cạnh. Một, để kiểm soát quá trình liên quan đến bầu cử, ứng cử cũng như giải quyết các tranh chấp hoặc sai phạm trong quá trình bầu cử, ứng cử này. Khía cạnh thứ hai là xác định rõ và kiểm soát các vấn đề liên quan đến tài chính và truyền thông của tổ chức chính trị đó. Ví dụ như trong Luật cơ bản của nước Đức (German Basic Law) quy định rõ: “Các đảng chính trị phải tham gia vào việc thiết lập ý chí chính trị cho nhân dân”.[4] Khía cạnh thứ ba liên quan đến vai trò của đảng chính trị đó đối với nhà nước.

Thứ hai, là thiết lập một khung khổ pháp lý cho các hoạt động liên quan của đảng chính trị. Nếu thiếu vắng một hệ thống luật về đảng chính trị, sẽ dẫn tới hoặc là đảng chính trị cầm quyền trở nên lạm quyền hoặc đảng chính trị chỉ được coi như một tổ chức bình thường như bất kỳ các tổ chức nào khác trong xã hội. Cho nên, nếu có một hệ thống luật về đảng chính trị đầy đủ, một mặt sẽ đề cao vai trò chính trị của đảng đó, nhưng mặt khác cũng hạn chế sự lạm dụng quyền lực của đảng chính trị đối với nhà nước và xã hội.

Thứ ba, là để điều chỉnh các cách thức hoạt động trong nội bộ đảng, ngăn ngừa và hạn chế sự lạm quyền ngay trong nội bộ của đảng chính trị đó.

Luật về đảng chính trị cần quy định những gì?

Khái niệm luật về đảng chính trị được hiểu rất khác nhau, tùy theo từng bối cảnh quốc gia và ý kiến cá nhân của từng học giả. Tuy nhiên, hiểu một cách chung nhất, luật về đảng chính trị là một bộ phận trong luật pháp của một quốc gia liên quan đến việc quy định những gì một đảng chính trị được phép làm hoặc không được phép làm. Thông thường, các luật này sẽ quy định về việc thành lập đảng, cách thức tổ chức và hoạt động của đảng chính trị.


Chủ tịch Ủy ban Bầu cử Quốc gia Liberia trao chứng nhận đăng ký thành lập đảng cho đại diện của Đảng Thống nhất Nhân dân (PUP) hồi năm 2014, nâng tổng số đảng chính trị đăng ký ở nước này lên con số 32. Ảnh: necliberia.org

Richard S. Katz cũng cho rằng luật về đảng chính trị của một quốc gia cần phải quy định về ba lĩnh vực như sau:

  1. Các quy định về việc thành lập, tổ chức một đảng chính trị nào đó
  2. Các quy định điều chỉnh những hoạt động của đảng chính trị đó.
  3. Đảm bảo các hoạt động của các đảng chính trị phải tuân thủ các quy định của pháp luật[5]

Cũng theo Richard Katz, luật về đảng chính trị được hiểu là “các quy định của nhà nước nhằm điều chỉnh và xác định quy chế pháp lý của đảng chính trị đôi khi là các quy định nhằm điều chỉnh tư cách pháp lý của các thành viên đảng đó, đảng chính trị đó sẽ phải tổ chức như thế nào, các đảng đó có thể tiến hành các chiến dịch của họ ra sao, làm thế nào để đảng đó kiểm soát được nguồn tài chính đóng góp”[6].

Tên gọi của luật về các đảng chính trị này tùy thuộc vào mỗi một quốc gia, có thể gọi là Luật về đảng chính trị (Law on Political Parties) như ở Đức, hoặc Đạo luật về đảng chính trị (Political Parties Act) như ở Hàn Quốc[7]. Tuy nhiên, thông thường, các luật này chủ yếu bao gồm các quy định về bầu cử, thực hiện các chiến dịch hoạt động của đảng và vấn đề tài chính cho sự hoạt động của đảng đó.

Theo một nghiên cứu của các học giả Hà Lan cho biết, kể từ năm 1944 đến năm 2010 trong số 33 quốc gia ở châu Âu, có 20 quốc gia đã thông qua luật về đảng chính trị[8], bao gồm: Áo, Bungari, Croatia, Cộng hòa Séc, Estonia, Phần Lan, Đức, Hungari, Latvia, Lithuania, Na uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumani, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Ukraina và Anh Quốc[9]. Theo nhận xét của Bértoa, Piccio & Rashkova trong bài viết “Party Law in Comparative Perspective”[10] thì quá trình xuất hiện luật về đảng chính trị ở châu Âu có thể chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên bao gồm Đức, Phần Lan và Áo, ba quốc gia này đã xây dựng nền dân chủ từ nửa đầu của thế kỷ XX. Giai đoạn thứ hai là sự ra đời của luật về đảng chính trị của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Giai đoạn thứ ba là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội với sự nắm quyền của đảng cộng sản ở các nước Đông Âu, các quốc gia này sau khi đoạn tuyệt với đảng cộng sản đã chuyển sang xây dựng mô hình dân chủ, bắt đầu với Hungary thông qua luật về đảng của họ năm 1989.[11]

Kỳ tới: Các mô hình luật về đảng chính trị trên thế giới

Tài liệu tham khảo: 

[1] United Nations Millennium Declaration, para 24.
[2] Reference re Manitoba Language Rights, [1985], 1 S.C.R. 721 at 748. Reference re Sesession of Quebec, [1998], 2 S.C.R 217 at para 71.
[3] Democracy and the Legal Regulation of Political Parties
[4] German Basic Law, điều 1, khoản 1.
[5] Kenneth Janda, Political Parties and Democracy in Theoritical and Practical Perspective, trang 3.
[6] Kenneth Janda, tlđd, trang 4.
[7] Kenneth Janda, tlđd, trang 4.
[8] Party Law in Modern Europe
[9] Party Law in Modern Europe
[10] Bértoa, Piccio & Rashkova, Party Law in Comparative Perspective,trang 4 – 6.
[11] Bértoa, Piccio & Rashkova, tlđd, trang 4 – 6.

Bài viết này nằm trong tiểu luận “Tương lai nào cho luật về đảng chính trị ở Việt Nam?” được Luật Khoa tạp chí đăng tải dài kỳ kể từ ngày 30/1.

Tương lai nào cho luật về đảng chính trị ở Việt Nam?


Kỳ 1: Đảng chính trị là gì?

Cho đến nay, chưa thể có một định nghĩa nào hoàn hảo về đảng chính trị mà được tất cả mọi người chấp nhận. Những khác biệt về nhận thức, quan điểm, và mong muốn của mỗi người đối với đảng chính trị đã dẫn tới những định nghĩa khác nhau về đảng chính trị.

Hiểu một cách đơn giản thì đảng chính trị là một dạng đặc biệt của tổ chức xã hội. Nó không giống các hiệp hội, liên đoàn hay các nghiệp đoàn xã hội ở cách thức tổ chức và đặc biệt là các hoạt động mang đậm tính chính trị.


Các ứng cử viên Tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2012 ở Hàn Quốc. Mỗi ứng viên đại diện cho một đảng chính trị khác nhau. Bà Park Geun-hye (ngoài cùng bên trái), đại diện cho Đảng Saenuri đã giành chiến thắng. Ở Hàn Quốc có tới hàng chục đảng phái và bốn trong số đó đang chia sẻ phần lớn quyền lực chính trị tại đất nước này. Ảnh: Julio Martinez/Flickr

Đảng chính trị không chỉ đơn thuần đấu tranh để tham gia vào việc thể hiện các quan điểm chính trị mà còn đấu tranh để giành quyền đại diện cho người dân trong quốc hội. Thông thường, các đảng chính trị đều giành quyền lực thông qua việc bỏ phiếu của người dân. Trách nhiệm của đảng chính trị đối với người dân thể hiện qua việc thực hiện các cam kết mà đảng chính trị đã đưa ra trong chiến dịch tranh cử. Ý chí của người bỏ phiếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với một đảng chính trị.

Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đảng chính trị, một nhà khoa học chính trị nổi tiếng người Mỹ là Anthony Downs có đưa ra định nghĩa: “Một đảng chính trị là một đội ngũ, gồm nhiều người, tìm kiếm việc kiểm soát chính quyền một cách chính danh, thông qua việc thực hiện một cuộc bầu cử”.[1]

Một người khác là Neumann thì cho rằng đảng chính trị là: “Một tổ chức công khai của các nhà hoạt động chính trị trong xã hội có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực của nhà nước, những người này cạnh tranh với nhau trong việc tìm kiếm sự ủng hộ từ một hay nhiều nhóm khác nhau. Thông thường, đảng chính trị đóng vai trò trung gian để kết nối giữa các lực lượng trong xã hội với các hệ thống giá trị từ các định chế nhà nước và liên quan đến đảng chính trị đó thông qua các hành động chính trị trong một cộng đồng chính trị rộng hơn”.[2]

Nói một cách đơn giản, đảng chính trị là các tổ chức thường trực của các công dân, bao gồm các đảng viên tham gia một cách tự do, có những chương trình hoạt động cụ thể nhằm tổ chức thực hiện quyền lực chính trị mà đảng đó nắm giữ, thông qua các hoạt động quản lý và giải quyết các vấn đề của nhà nước và xã hội. Việc thực hiện việc tổ chức quyền lực của đảng chính trị đó bắt đầu với việc đảng giành được quyền lực thông qua những cuộc bầu cử dân chủ.[3]

Các đảng chính trị được phân loại bởi tính chất tranh đấu của nó. Tính chất tranh đấu ở đây được hiểu là sự sẵn sàng thực hiện các hành động chính trị, phát động các phong trào đối kháng và khát vọng trong việc giành và giữ chính quyền. Các cuộc tranh đua này giữa các đảng chính trị có tác dụng như một phương tiện để giành quyền lực chính trị, và toàn bộ tổ chức của một đảng sẽ đóng vai trò thực hiện kế hoạch này. Chỉ các đảng thành công trong cuộc đua tranh này mới giành được chức năng đại diện để tham gia vào các tiến trình chính trị. Đó chính là phần thưởng để khiến các đảng nỗ lực hành động, bởi vì khi một đảng chính trị thành công trong cuộc tranh đua sẽ được tham gia vào bộ máy nhà nước của quốc gia đó.

Các đảng chính trị luôn là trung tâm cho các cuộc thảo luận và tranh luận về việc đổi mới nền chính trị cũng như thực hiện các thay đổi chính trị. Các lợi ích cho chính thể sẽ được tìm thấy qua các quyết sách sáng suốt của đảng chính trị cầm quyền đó. Những lợi ích như vậy, không chỉ tìm thấy trong đảng cầm quyền mà còn ở trong các các đảng chính trị đối lập. Trong một thể chế dân chủ, đảng đối lập thường có chức năng như là một “cơ quan giám sát” đối với các chính sách của chính phủ hoặc cho các lựa chọn chính trị trong tương lai. Các đảng chính trị đối lập thường là đối thủ đáng ngại cho đảng cầm quyền, nhưng chính vì vậy, sự tồn tại của các đảng đối lập là hết sức cần thiết trong một thể chế dân chủ.

Đối lập với các nhóm lợi ích, một đảng chính trị luôn được mong chờ sẽ thể hiện các hoạt động của đảng thông qua các hoạt động liên quan của chính phủ. Các hoạt động này bao gồm cả các hoạt động đối nội và đối ngoại, các chính sách kinh tế và xã hội, các chính sách giáo dục hay chính sách liên quan thiết thực đến đời sống công dân. Để đáp ứng các yêu cầu của xã hội, mỗi một đảng sẽ có những chương trình hoạt động riêng, và đảng đó sẽ phải tổ chức thực hiện các chương trình hoạt động đó.

Kỳ tới: Đảng chính trị ra đời từ khi nào?
Tài liệu tham khảo:

[1] Anthony Downs, An Economic Theory of Democracy , New York: Harper & Brothers, 1957, trang 25.

[2] Moshe Maor, Political Parties and Party Comparative approaches and the British experience, Routledge, 1997, trang 5.

[3] Thông thường, những cuộc bầu cử được coi là dân chủ và công bằng phải được thực hiện trong sự cạnh tranh giữa ít nhất là hai đảng trở lên trong một hệ thống chính trị.


Kỳ 2: Đảng chính trị ra đời từ khi nào?

Sự xuất hiện của các đảng chính trị theo cách hiểu như của chúng ta về đảng chính trị hiện nay, chỉ được biết đến sau những năm cuối của thế kỷ XVII. Cho đến nay, những tài liệu lịch sử không cho chúng ta biết gì về đảng chính trị thời kỳ Hy – La. Những người Hy lạp cổ xưa là những người tiên phong trong việc phát triển dân chủ nhưng họ cũng không có tổ chức nào giống như các đảng chính trị hiện nay. Nghị viện của người La mã cổ đại có hai nhóm đại diện cho lợi ích của hai nhóm dân cư là Patricians và Plebeians, nhưng cũng không phải là đảng chính trị. Trong nhiều thế kỷ, sau sự sụp đổ của đế chế La mã ( năm 476 sau Công nguyên), người dân châu Âu cũng có bàn luận về các vấn đề chính trị, nhưng không phải thứ chính trị như bây giờ.

Sự xuất hiện của đảng chính trị đầu tiên trên thế giới có lẽ bắt đầu từ nước Anh, trong thời kỳ được gọi là Popish Plot năm 1678, với hai đảng đầu tiên được biết đến với cái tên là đảng Whig và đảng Tory.

Cái tên Whig và Tory bắt đầu xuất hiện ở nước Anh từ cuối những năm 1670[1], Whig là một từ cổ trong tiếng Scotland chỉ những người đối lập với chính quyền. Còn Tory là chỉ những người Ailen theo Thiên chúa giáo La mã, là những người ủng hộ nhà vua.

Những người theo đảng Whig muốn có một định chế để kiểm soát quyền lực của Vua Anh, nhưng những người của đảng Tory lại muốn duy trì quyền lực tuyệt đối của chế độ quân chủ.[2] Đảng Tory thì muốn có một vị vua mạnh mẽ, đầy quyền lực để cai trị đất nước trong khi đảng Whig thì muốn người dân có nhiều quyền hơn trong việc kiểm soát các hoạt động của chính quyền.

Về sau, Nghị viện Anh đã nắm quyền kiểm soát vương quyền, còn đảng Whig và đảng Tory đã trở thành những đảng được tổ chức chặt chẽ. Giai đoạn từ năm 1832 – 1846 là giai đoạn hình thành hệ thống chính trị lưỡng đảng ở Anh quốc. Năm 1830 đảng Whig đổi tên là đảng Bảo thủ và có một số thay đổi mới[3].


The Polling (Bỏ phiếu), bức tranh nổi tiếng của họa sĩ William Hogarth, nằm trong bộ bốn bức tranh “The Humours of an Election” (Sự hài hước của một cuộc bầu cử) khắc họa cuộc bầu cử Hạ viện Anh năm 1754 ở hạt Oxfordshire. Trong bức tranh này, các ứng cử viên của đảng Whig và đảng Tory đang lôi kéo cử tri bỏ phiếu cho mình bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó có cả việc lôi người bị tâm thần và người sắp chết đi bỏ phiếu. Ảnh: Wikipedia

Tuy nhiên, một nhánh của đảng Whig đã tách ra và phát triển theo một hướng khác và hình thành nên đảng Tự do (Liberal). Đến năm 1918 thì đảng Tự do suy thoái dần dần. Và một đảng mới xuất hiện thay thế vai trò của đảng Tự do, đó chính là Công đảng.[4] Hiện nay, hệ thống chính trị Anh quốc có hai đảng thay nhau cầm quyền (nên các nhà nghiên cứu gọi là hệ thống chính trị lưỡng đảng ) là Công đảng và đảng Bảo thủ.

Còn tại Mỹ, Hamilton và một số người ủng hộ muốn xây dựng một chính quyền trung ương mạnh, cho nên, năm 1787, họ đã thành lập một liên minh chính trị và gọi đó là đảng Người liên bang (the Federalists), đây chính là đảng chính trị đầu tiên ở Hoa Kỳ.[5] Năm 1796, một nhóm đối lập với quan điểm của Người liên bang đã tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Thomas Jefferson, họ muốn hạn chế quyền lực của chính quyền liên bang. Các thành viên trong nhóm này đã gọi tên đảng của họ là đảng Cộng hoà – Dân chủ.

Các doanh nhân, chủ ngân hàng, các thương nhân ở phía Bắc thì ủng hộ cho đảng Người liên bang, còn các chủ trang trại nhỏ, các nông dân và thợ thủ công thì ủng hộ cho đảng Cộng hoà – Dân chủ. Về chính sách đối ngoại thì đảng Người liên bang nghiêng về ủng hộ nước Anh, trong khi đảng Cộng hoà – Dân chủ lại ủng hộ cho cuộc cách mạng Pháp. Lãnh đạo đảng Người liên bang đầu tiên là John Adams, người đã nối tiếp George Washington giữ chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ. Tuy nhiên, từ năm 1800 đảng Người Liên bang đã bị giành mất chính quyền bởi đảng Cộng hoà – Dân chủ. Đảng Người liên bang đã chỉ còn một số lượng đảng viên ít ỏi trong giai đoạn từ năm 1800 đến năm 1820.[6]

Kể từ 1820 trở đi, đời sống chính trị Hoa Kỳ đã có những sự thay đổi đáng kể, xuất hiện thêm nhiều quan điểm đối chọi nhau của các chính khách trên khắp đất nước. Chính điều đó đã dẫn tới cuộc nội chiến Hoa Kỳ. Các chủ trang trại ở miền Bắc, các nông dân ở biên giới phía Tây, các chủ ngân hàng và các nhà buôn ở miền Bắc muốn chính quyền liên bang thực hiện một số chính sách, trong đó có việc duy trì chế độ nô lệ.

Năm 1828, một đảng viên của đảng Cộng hoà – Dân chủ là Andrew Jackson đã tham gia ứng cử Tổng Thống. Ông ta đã thành lập một đảng của riêng mình, tách ra từ đảng Cộng hoà – Dân chủ và đặt tên là đảng Dân chủ (Democrats). Những người thuộc đảng Người Liên bang trước đây đã tập hợp cùng những người chống lại đảng Dân chủ đã thành lập một liên minh gọi là Quốc gia Cộng hoà. Đảng này cũng còn được gọi là đảng Whig.[7]

Năm 1854, sự tranh cãi về vấn đề nô lệ đã phủ một bóng đen lên nền chính trị Hoa Kỳ. Với sự chia rẽ quan điểm trong vấn đề duy trì hay không duy trì chế độ nô lệ đã khiến lực lượng của cả hai đảng Cộng hoà và đảng Whig bị phân rã. Cũng trong năm này, lực lượng chống lại việc duy trì chế độ nô lệ đã liên minh với lực lượng gọi là Đất tự do để thành lập một đảng lấy tên là Đảng Cộng hoà (Republican Party).[8]

Lúc này Hoa Kỳ gồm rất nhiều đảng chính trị, lịch sử ghi nhận giai đoạn này Hoa Kỳ có 6 đảng chính trị khác nhau, tuy nhiên sau cuộc Đại suy thoái 1929 – 1933, Hoa Kỳ đã chuyển sang giai đoạn lưỡng đảng chi phối toàn bộ nền chính trị Hoa Kỳ dù vẫn còn có những đảng chính trị khác cùng tồn tại. Cho đến nay, mặc dù có nhiều đảng chính trị cùng tồn tại, nhưng thực chất Hoa Kỳ chỉ là hệ thống chính trị lưỡng đảng, với hai đảng thay nhau và cạnh tranh với nhau để cầm quyền là đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa.

Còn tại Đức, quá trình xuất hiện đảng chính trị bắt đầu từ thế kỷ XIX[9]. Khởi đầu, các đảng chính trị ở Đức thuộc về bốn nhóm, bao gồm: Tự do, Bảo thủ, Xã hội và Thiên chúa giáo. Sau này cùng với quá trình công nghiệp hóa và phát triển đô thị, dẫn tới sự lớn mạnh của giai cấp công nhân ở Đức. Dưới sự ảnh hưởng của học thuyết Marx và bối cảnh ra đời của nhiều đảng xã hội ở các nước châu Âu lúc đó, một đảng xã hội với tên gọi là Đảng Xã hội Dân chủ của Công nhân (Social Democratic Workers Party) được thành lập năm 1869[10], đây là đảng chính trị đầu tiên ở Đức. Tuy vậy, cho đến nay, hệ thống chính trị của Đức đang có 7 đảng chính trị, bao gồm: Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo; đảng Dân chủ xã hội; đảng Dân chủ tự do; đảng Xanh; đảng Cánh tả; Liên minh Xã hội Thiên chúa giáo; đảng Hải tặc[11].


Wilhelm Liebknecht và August Bebel, hai lãnh đạo đầu tiên của Đảng Xã hội Dân chủ của Công nhân Đức, chính đảng đầu tiên ở nước này. Họ là những người chịu ảnh hưởng của học thuyết xã hội chủ nghĩa của người đồng hương Karl Marx. Ảnh: Wikipedia

Tại Pháp, sau cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789, đã dẫn đến việc thành lập các đảng chính trị, ở Pháp hiện nay bao gồm 6 đảng chính trị khác nhau[12].

Sau đó, ảnh hưởng của nền dân chủ phương Tây cùng với việc thực hiện các chương trình bầu cử đã lan rộng đến nhiều nơi trên thế giới. Từ Tây âu cho tới Bắc Mỹ, cũng như nhiều quốc gia tại châu Mỹ La tinh và châu Á, nền dân chủ được tổ chức thực hiện dựa trên sự cạnh tranh của các đảng chính trị đã trở thành một khuôn mẫu cho các thể chế chính trị khác học tập và xây dựng. Nhưng ở một số nước tại khu vực Đông Âu cùng với Nga và Trung Quốc đã thay đổi từ một quốc gia quân chủ tuyệt đối sang một hệ thống chính trị dựa trên một đảng duy nhất cầm quyền.

Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ trên thế giới, các hệ thống chính trị độc đảng ở Đông Âu đã thất bại trong việc duy trì phát triển kinh tế quốc gia, trong khi đó các hệ thống chính trị lưỡng đảng và đa đảng của các nước phương Tây lại đạt được nhiều thành tựu lớn trong quá trình phát triển. Cho đến cuối những năm 1980, trước sự thất bại của mô hình chính trị độc đảng, sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, nhiều quốc gia Đông Âu đã phải chuyển từ chế độ độc đảng sang chế độ đa đảng để kiến tạo và phát triển nền dân chủ. Cũng trong thời gian này, nhiều quốc gia châu Á cũng như châu Phi đã phải chịu nhiều áp lực trong việc dân chủ hóa hệ thống chính trị của họ.
Tài liệu tham khảo:

[1] Eric J. Evans, Political Parties in Britain 1783 – 1867: 2001, trang 7

[2] Eric J. Evans, sđd, trang 7

[3] Eric J. Evans, sđd, trang 35

[4] Eric J. Evans, sđd, trang 50

[5] Michael Gizzi, Tracey Gladstone-Sovell, William Wilkerson, The Web of Democracy: An Introduction to American Politics, trang 191.

[6] Michael Gizzi, Tracey Gladstone-Sovell, William Wilkerson, sđd, trang 191.

[7] Michael Gizzi, Tracey Gladstone-Sovell, William Wilkerson, sđd, trang 193

[8] Michael Gizzi, Tracey Gladstone-Sovell, William Wilkerson, sđd, trang 193

[9] Geoffrey Roberts, Party Politics in the New Germany, trang 5

[10]Geo ffrey Roberts, sđd, trang 6

[11] http://www.spiegel.de/international/germany/guide-to-german-political-parties-a-886188.html

[12] http://www.ambafrance-uk.org/Political-partiescai

Nhà nghiên cứu Hoàng Sơn
Theo Luật Khoa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Bottom Ad